nguyễn sơn hà | |||
"tiên học lễ, hậu học văn" | ![]() | ![]() | ![]() |
Nói về chữ "lễ" trong ca dao có rất nhiều câu để nhắc nhở con người sống "lễ" như : Trời sinh ra kiếp làm người Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi Khi ăn thì phải lựa mùi Khi nói thì phải lựa lời chớ sai Cả vui chớ có vội cười Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì Vì vậy mà "lễ" được coi là yếu tố đầu tiên của mọi sự, do đó mới có cái câu "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" nên hễ là người Việt và nhất là thuộc thế hệ trước 1975, không ai mà không biết. Sau biến cố tháng 30/4 năm 1975, chế độ CsVN dưới nhản hiệu "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa" đã tẩy xóa tháo gỡ cái câu này xuống trong hai thập niên đầu sau khi xâm chiếm miền Nam, đã chứng tỏ cho mọi người tính cách "vô lễ" của đảng cướp quyền cộng sản : " Người mà vô lễ khác gì muôn dê" ! Ngày nay cho dù chúng ta thấy đảng CsVN cũng đã cho viết vẽ, ghi khắc lại cái câu "Tiên học Lễ, hậu học Văn" này ở mặt tiền của hay trong khung viên các nhà trường, thì cũng đã làm cho người dân tự hỏi... ? Thái độ thay đổi như lật bàn tay đó của CsVN vào đầu thập niên 90, không có gì khó hiểu, vì cũng như cái danh Việt kiều lúc đầu là dân ngụy với tội phản bội dân tộc đất nước, tự nhiên ngày hôm trước hôm sau, trở thành Việt kiều yêu nước với đặc danh là "khúc ruột ngàn dặm" ! Sự tráo trở đột ngột để xu thời đó khỏi cần nói, tự nhiên ai cũng biết cái lòng dạ nham hiểm của đảng CsVN. Vì vậy cái câu "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" hiện nay ở Việt Nam chỉ là bình phong nhản hiệu để đừng nói là "treo đầu dê, bán thịt chó", để bịt mắt quốc tế và những kẻ ngây thơ đi tin cộng sản là đã thay đổi hay đã có lễ. Ai cũng biết luật giá sắc (gieo gặt) của Trời còn gọi là nhân quả, thì là hạt giống xấu không thể cho trái (quả) tốt. Tương tự con người vô tâm, vô lễ, bất nhơn, thất đức không thể nào tự nhiên có Lễ và biết Văn được ! Bằng chứng là đảng CsVN đã dùng trường học để tuyên truyền "Lễ dối Văn xảo" bằng cái thuyết độc chiều của Kạt Mạt, mà chỉ có những tên độc đoán như Lénine, độc tài khát máu như Staline, độc hại kiểu quái vật như Mao, và độc ác lưu manh như Hồ mới đi lừa gạt, nhồi sọ và đầu độc con nít để làm lợi cho mình ; mà dưới đây là một trong muôn vàn mưu thâm kế độc (!) ví dụ với bài thơ khai tâm nằm lòng cho trẻ học là bài thơ của đảng viên cộng sản Tố Hữu : Giết, giết nữa, bàn tay không ngưng nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt. hay để nhìn nhận sự xâm lăng của Tàu cộng lên đất nước hiện nay, để đừng nói là bênh vực hành động bán nước của đảng CsVN như 2 câu thơ sau đây : Bên nay biên giới là nhà Bên kia biên giới cũng là Quê Hương (??!) Vì vậy, nên bạn cũng như tôi không lạ gì khi được nghe nói về những thành tích "tiến sĩ giấy" của nền giáo dục Việt Nam, mà gần đây qua bản tường trình về trình độ và phẩm chất của Đại Học Việt Nam do nhóm nghiên cứu của Đại Học Havard tổ chức, đã xếp hạng ĐHVN là đứng nhứt thế giới từ dưới đếm lên !! Như đã nói theo quy luật gieo gặt của Trời, tức là hễ "gieo gì gặt nấy, ai gieo nấy gặt, gieo một gặt trăm" mà câu ngạn ngữ "gieo gió gặt bão", đã nói lên điều đó. Nên trên thế giới này chỉ có những xứ dưới chế độ cộng sản độc tài bất nhơn, mới đi đầu độc con nít để khai thác và làm lợi cho chế độ, đặc biệt là Việt Nam với bằng đủ cách giả hình, quỷ quyệt, tồi bại nhất để nhồi sọ, gieo vào đầu giới trẻ từ hơn cả một thế hệ với cái ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà phải hiểu là "xảo (xạo) hết chỗ nói"(!). Nên đó là một tội tầy Trời mà tôi nghĩ là những kẻ bán nước hại dân này sắp sửa lãnh đủ cái "quả" ngàn tạ lên đầu ! Vì Chúa đã có nói : "Nhưng kẻ nào làm cho (chỉ) một trong những đứa trẻ này tin vào Ta bị lầm lạc sa ngã, kẻ đó đáng cho người ta cột một cái cối đá lớn vào cổ nó rồi quăng cho chìm xuống vực biển sâu." (Matt.18,6 ; Mc.9,42 ; Lc.17,1) Vì con nít là "Nhân chi sơ tính bổn thiện" có nghĩa Nhân là Tính Bản Thiện của con người tức lúc sơ sinh mà Trời đã phú cho, do đó mà mới nói là Nhân Tính của con người, hay còn nói là Tính Bản Nhiên. Nên chữ Thiện ở đây không những là nghĩa tốt đẹp, giỏi, hay, khéo, hiền lành, thân thiện, từ thiện, lòng thương tốt lành như ai cũng hiểu, mà còn bao gồm cả cái nghĩa Chân-Thiện-Mỹ với nghĩa hồn nhiên, tự nhiên. Cho nên ai cũng thấy con nít rất là hồn nhiên một cách tự nhiên, vì nó biểu tượng chân-thiện-mỹ, do đó con nít được thương, được cưng chiều quý mến vì nó phản ảnh cái Tính Bản Thiện nơi mình, đó là đức Nhân. Vì vậy kẻ nào không biết thương con nít mà còn đi hại con nít dưới bất cứ hình thức nào, nhất là lừa gạt bằng đầu độc để làm lợi cho mình thì đúng là kẻ bất nhân, và chỉ có đáng chết như Chúa đã nói ! Vì vậy mà hơn bao giờ hết "Tiên học Lễ, Hậu học Văn" cần được Học lại với ý nghĩa nguyên thủy để mà Hành cho đúng Đạo. Nên trong chiều hướng đó qua khuôn khổ bài này tôi mạo muội nhắc lại ý nghĩa nguyên thủy của hai chữ Lễ và Văn. Theo thiển ý tôi, chữ Lễ viết theo lối cổ là bộ "kỳ" kép với bộ "nhân". Kỳ là nghĩa lễ tế (thần) và Nhân là con người, nên Lễ có nghĩa sơ thủy là "Tự tế" nghĩa là tế cái đức Nhân tự nơi mình. (Từ đó sau này mới có tiếng "tử tế" có nghĩa là người có nhân đức vì biết cứu trợ giúp đỡ (tế độ) người khác vượt qua khó khăn). Cho nên Lễ có nghĩa là quy về Tâm để tế, tức là sống ý thức cái Nhân tự Tính là Bản gốc tự Nhiên của con người là "giao chỉ" của đức Trời và Đất. Còn hai chữ "Tế tự" là nghĩa lễ cúng tế Trời Đất theo thời tiết, theo mùa, theo năm, nhưng cũng có nghĩa là lễ tế Nhân vì con Người có đức Tính của Thiên lẫn Địa. Vì vậy Lễ là tôn trọng Nhân Tính là sống Nhân Đạo, vì nguồn gốc nguyên thủy của Lễ là Nhân, là Đạo tức chính là một Tính của Thiên Đạo đó là Từ Bi Bác Ái. Cho nên Lễ thật sự là những gì từ trong tâm (vô vi) tỏ lộ ra ngoài (hữu vi) mà không chú trọng tới đối tượng màu mè, hình thức hay sắc thái bên ngoài, nhưng chỉ ráng yêu thương hết mọi người bằng tấm lòng chân thật. (An thổ đồn hồ nhân, cố năng ái.) Do đó phải học Lễ mới biết Lễ thực sự thì mới đạt được Nhân (Bi), mà đạt được Nhân tức là đạt Trí Dũng đó thôi ! Cho nên dưới Nho giáo Lễ được coi là điều kiện tiên quyết để sống cái Nhân Tính của mình bằng cách gieo rắc tình thương cho tha nhân. Do đó dưới thời Khổng Tử Lễ được nhắc lại là phải "dụng tình", đó là cái đích tối cao của Lễ như câu: "Giáo dân tương ái, thượng hạ dụng tình, lễ chi chí dã" (Kinh Lễ 21.3), hay nói cách khác, phải có Lễ để làm cho dân biết hỗ tương yêu quý kính trọng nhau, trên dưới dụng tình hơn lý, thì đó mới là Lễ. Từ đó Lễ được hiểu với nghĩa "tương giao" là lễ nghĩa, lễ nghi, lễ phép, lễ độ, lễ lạc, lễ tế, lễ tục,... như không biết bao nhiêu thứ lễ tục đã có từ xa xưa (mà nhiều lễ ngày nay không còn được biết) : lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ đại liệm, lễ đại tường, lễ động quan, lễ bái quan, lễ cầu thân, lễ hạ rộng, lễ khao vọng, lễ khiển điện, lễ lệ bì, lễ mở cửa mả, lễ minh tinh, lễ nạp cát (lễ nạp kiết), lễ nạp tệ (lễ nạp tài), lễ nạp thái, lễ nạp trưng, lễ nhập quan, lễ nhị hỉ, lễ phạn hàm lễ phản bái, lễ phản khóc, lễ phục hồn, lễ quan ôn, lễ sơ ngu, lễ sơ vấn, lễ siêu độ, lễ kỳ an (siêu), lễ tạ mã, lễ tế thổ thần, lễ tái ngu, lễ tam ngu, lễ thỉnh kỳ, lễ thân nghênh, lễ thành phần, lễ thành phục, lễ thiên cữu, lễ tiểu liệm, lễ tiểu tường, lễ trừ phục, lễ triêu tịch điện, lễ vấn danh, lễ yết tổ, v.v... Để nói, đời sống con người là một cuộc lễ vô tận với chiều kích vô biên còn gọi là Nhân Đạo, nhưng vì người ta chỉ thấy sắc thái bên ngoài và bám vào đó, rồi quên mất đi cái nghĩa nguyên thủy của Lễ là ở bên trong nơi Tâm là Nhân Tính con người. Do đó mà phải "khắc kỷ phục lễ" thì mới có Nhân để mà sống Đạo làm người, cho nên chuyện đầu tiên là "tiên học lễ" rồi mới "hậu học văn". Nhưng Văn không phải là nghĩa "văn chương hiến pháp" như hầu hết mọi người đã hiểu từ xưa nay, mà là Văn Hóa theo nghĩa cao quý nhất của hai chữ văn hóa, tức là lấy cái Nhân của Văn, chính là của người mình để mà cảm hóa, giáo hóa chính mình (tu kỷ dĩ an nhân) thì mình mới là Nhân rồi mới chinh phục và an định được lòng người. Vì vậy Văn ở đây phải hiểu là "Văn đạo" đồng nghĩa với "Nhân đạo" tức là đạo làm Người. Cho nên khi nói Văn mà hiểu là văn hóa với văn thơ tác phẩm thì mình đã hiểu sai lạc với nghĩa nguyên thủy rất xa rồi ! Vì Văn viết với bộ "văn" là 2 nét nghiêng thành dấu chéo (nhân) như chữ "nghệ", kép với bộ "đầu" (với nghĩa trên cùng), tức với nghĩa nguyên thủy là năm màu kết hợp lại thành màu sắc mà không tạp loạn, như câu trong Kinh Lễ : "ngũ sắc thành văn nhi bất loạn". Tương tự như câu trong sách Luận Ngữ viết : "Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí": người là cái đức (cái hoạt lực) của thiên địa, là giao điểm của âm dương, nơi quỷ thần tụ hội, là cái khí tinh tế của ngũ hành. . "Vì thoạt mở lại chồng sách cổ, chúng ta đã thấy quan niệm Khí bao trùm khắp cả cõi học Viễn Đông. Có thể nói tất cả xây trên quan niệm âm dương nhị khí. Cho nên ngay đời hậu Hán đã có cả một triết thuyết về Khí luận của Hà Hưu chẳng hạn (xem Đại cương 191). Hay những người không chủ trương khí luận cũng vẫn chấp nhận. Khi đọc Đổng Trọng Thư chúng ta gặp chữ Khí có cả trăm lần. Trang Tử nói : người ta sinh ra là do khí tụ. Khí tụ thì sống, khí tán thì chết. Cho nên nói rằng "khắp cả gầm trời đều là khí mà thôi". Nhân chi sinh dã khí chi tụ dã, tụ tắc vi sinh, tán tắc vi tử, Cố viết : thông thiên hạ nhất khí nhĩ. (Đọc chương Khí luận trong Đại cương tr.190). Các tác giả lớn nhất như Chu Hy vẫn nói Lý khí (Nho giáo, Trần Trọng Kim II, tr.157) và Lục Tượng Sơn : "thiên địa diệc thị khí", trời đất cùng là Khí (Nho giáo, Trần Trọng Kim II, tr.148). Hệ từ IV viết : "Tinh khí vi vật" = khí tinh tuyền làm nên vạn vật." (Kim-Định/VTNL) Nên có thể nói "ngũ sắc thành Văn" có nghĩa tương tự như "ngũ hành chi tú Khí" với nghĩa nguyên thủy là Nhân tức là người có khí có văn. Cho nên Văn cũng là nghĩa màu sắc, văn vẻ, văn hoa bên ngoài được biểu lộ ra với cái Tình hướng Thiện, thích Chân, chuộng Mỹ của con người do cái Nhân Tính từ bên trong khi được "tự tế" bằng Lễ. Đó là ý nghĩa của Văn Hóa, nghĩa là dùng tất cả những liên hệ tương quan giữa con người với trí, nhân, dũng, qua ý, tình, chí để sống chân, thiện, mỹ. Hay nói cách khác Văn là tất cả những gì làm cho con người cảm hóa để tiến hóa, mở ra tới tận chiều kích vô biên để thành Nhân, thành Tính, thành Thần. Nên nhờ văn hóa đó mà tổ tiên chúng ta đã thiết lập được một hoàng kim thời đại (thời Hòa Bình cách nay lối trên 10 ngàn năm) kêu là Bình văn, nghĩa là nền Thái bình do Văn trị. Ngày nay, có những dấu chỉ cho thấy nhân loại đang quằn quại để chuyển hướng vì thiếu Lễ lẫn Văn, chúng ta đã thấy hiện nay xã hội của các xứ văn minh tân tiến với chủ thuyết dân chủ tự do, cũng đã bị xáo trộn vì đầy vô lễ, bất công nên gây ra bất mãn, ganh ghét, hận thù,... Người dân cũng còn phải xuống đường để đòi nhân quyền và bình đẳng như là đòi ăn, đòi uống thì mới may ra mới có chứ cũng đâu có cách tự nhiên nhờ "nhân chủ" ! Chính vì dân chúng của những xã hội tự do này bất đồng, bất mãn nên mới sinh ra đủ thứ tệ nạn như bạo lực, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, hay khinh ghét người không cùng tư tưởng hoặc văn hóa, v.v... Nên xét cho cùng thì sự sa đọa của con người cũng tại thiếu tâm linh, không còn biết Nhân Tính của mình, để tự tế, tự trọng, tự kính. Vì không biết sống với Tâm linh thì làm sao có lễ nghĩa đối với người khác bằng kính trọng để người khác trọng kính mình, chớ đừng nói là phải biết yêu thương nhau mà mọi tôn giáo đều khuyên dạy mình với "từ bi bác ái" ! Do đó tâm linh là điểm tối yếu cho Lễ đạo và Văn đạo mà chỉ có câu "tận kỳ tính" mới bao hàm được đủ ba đức tính : nhân bản, nhập thể, và hiện thực. Vả lại chữ Tính (ghép bởi chữ "tâm" và chữ "sinh") hàm chứa yếu tố tâm linh, tức là làn sóng mênh mông sáng láng tràn ngập vũ trụ mà con người là Nhân (tài) có nghĩa vụ phải tham dự vào, và một khi đã hiện thực tới nơi cái Tính thì không những biết người mà biết luôn cả Trời Đất muôn vật nữa như câu "tận kỳ tính tắc tri thiên, tri địa, tri nhân cập vật giả". Viết xong, ngày 30 tháng 9 năm 2009. (tức 12 tháng 8 năm Kỷ Sửu) Nguyễn Sơn Hà |
Nói về chữ "lễ" trong ca dao có rất nhiều câu để nhắc nhở con người sống "lễ" như : Trời sinh ra kiếp làm người Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi Khi ăn thì phải lựa mùi Khi nói thì phải lựa lời chớ sai Cả vui chớ có vội cười Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì Vì vậy mà "lễ" được coi là yếu tố đầu tiên của mọi sự, do đó mới có cái câu "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" nên hễ là người Việt và nhất là thuộc thế hệ trước 1975, không ai mà không biết. Sau biến cố tháng 30/4 năm 1975, chế độ CsVN dưới nhản hiệu "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa" đã tẩy xóa tháo gỡ cái câu này xuống trong hai thập niên đầu sau khi xâm chiếm miền Nam, đã chứng tỏ cho mọi người tính cách "vô lễ" của đảng cướp quyền cộng sản : " Người mà vô lễ khác gì muôn dê" ! Ngày nay cho dù chúng ta thấy đảng CsVN cũng đã cho viết vẽ, ghi khắc lại cái câu "Tiên học Lễ, hậu học Văn" này ở mặt tiền của hay trong khung viên các nhà trường, thì cũng đã làm cho người dân tự hỏi... ? Thái độ thay đổi như lật bàn tay đó của CsVN vào đầu thập niên 90, không có gì khó hiểu, vì cũng như cái danh Việt kiều lúc đầu là dân ngụy với tội phản bội dân tộc đất nước, tự nhiên ngày hôm trước hôm sau, trở thành Việt kiều yêu nước với đặc danh là "khúc ruột ngàn dặm" ! Sự tráo trở đột ngột để xu thời đó khỏi cần nói, tự nhiên ai cũng biết cái lòng dạ nham hiểm của đảng CsVN. Vì vậy cái câu "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" hiện nay ở Việt Nam chỉ là bình phong nhản hiệu để đừng nói là "treo đầu dê, bán thịt chó", để bịt mắt quốc tế và những kẻ ngây thơ đi tin cộng sản là đã thay đổi hay đã có lễ. Ai cũng biết luật giá sắc (gieo gặt) của Trời còn gọi là nhân quả, thì là hạt giống xấu không thể cho trái (quả) tốt. Tương tự con người vô tâm, vô lễ, bất nhơn, thất đức không thể nào tự nhiên có Lễ và biết Văn được ! Bằng chứng là đảng CsVN đã dùng trường học để tuyên truyền "Lễ dối Văn xảo" bằng cái thuyết độc chiều của Kạt Mạt, mà chỉ có những tên độc đoán như Lénine, độc tài khát máu như Staline, độc hại kiểu quái vật như Mao, và độc ác lưu manh như Hồ mới đi lừa gạt, nhồi sọ và đầu độc con nít để làm lợi cho mình ; mà dưới đây là một trong muôn vàn mưu thâm kế độc (!) ví dụ với bài thơ khai tâm nằm lòng cho trẻ học là bài thơ của đảng viên cộng sản Tố Hữu : Giết, giết nữa, bàn tay không ngưng nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt. hay để nhìn nhận sự xâm lăng của Tàu cộng lên đất nước hiện nay, để đừng nói là bênh vực hành động bán nước của đảng CsVN như 2 câu thơ sau đây : Bên nay biên giới là nhà Bên kia biên giới cũng là Quê Hương (??!) Vì vậy, nên bạn cũng như tôi không lạ gì khi được nghe nói về những thành tích "tiến sĩ giấy" của nền giáo dục Việt Nam, mà gần đây qua bản tường trình về trình độ và phẩm chất của Đại Học Việt Nam do nhóm nghiên cứu của Đại Học Havard tổ chức, đã xếp hạng ĐHVN là đứng nhứt thế giới từ dưới đếm lên !! Như đã nói theo quy luật gieo gặt của Trời, tức là hễ "gieo gì gặt nấy, ai gieo nấy gặt, gieo một gặt trăm" mà câu ngạn ngữ "gieo gió gặt bão", đã nói lên điều đó. Nên trên thế giới này chỉ có những xứ dưới chế độ cộng sản độc tài bất nhơn, mới đi đầu độc con nít để khai thác và làm lợi cho chế độ, đặc biệt là Việt Nam với bằng đủ cách giả hình, quỷ quyệt, tồi bại nhất để nhồi sọ, gieo vào đầu giới trẻ từ hơn cả một thế hệ với cái ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà phải hiểu là "xảo (xạo) hết chỗ nói"(!). Nên đó là một tội tầy Trời mà tôi nghĩ là những kẻ bán nước hại dân này sắp sửa lãnh đủ cái "quả" ngàn tạ lên đầu ! Vì Chúa đã có nói : "Nhưng kẻ nào làm cho (chỉ) một trong những đứa trẻ này tin vào Ta bị lầm lạc sa ngã, kẻ đó đáng cho người ta cột một cái cối đá lớn vào cổ nó rồi quăng cho chìm xuống vực biển sâu." (Matt.18,6 ; Mc.9,42 ; Lc.17,1) Vì con nít là "Nhân chi sơ tính bổn thiện" có nghĩa Nhân là Tính Bản Thiện của con người tức lúc sơ sinh mà Trời đã phú cho, do đó mà mới nói là Nhân Tính của con người, hay còn nói là Tính Bản Nhiên. Nên chữ Thiện ở đây không những là nghĩa tốt đẹp, giỏi, hay, khéo, hiền lành, thân thiện, từ thiện, lòng thương tốt lành như ai cũng hiểu, mà còn bao gồm cả cái nghĩa Chân-Thiện-Mỹ với nghĩa hồn nhiên, tự nhiên. Cho nên ai cũng thấy con nít rất là hồn nhiên một cách tự nhiên, vì nó biểu tượng chân-thiện-mỹ, do đó con nít được thương, được cưng chiều quý mến vì nó phản ảnh cái Tính Bản Thiện nơi mình, đó là đức Nhân. Vì vậy kẻ nào không biết thương con nít mà còn đi hại con nít dưới bất cứ hình thức nào, nhất là lừa gạt bằng đầu độc để làm lợi cho mình thì đúng là kẻ bất nhân, và chỉ có đáng chết như Chúa đã nói ! Vì vậy mà hơn bao giờ hết "Tiên học Lễ, Hậu học Văn" cần được Học lại với ý nghĩa nguyên thủy để mà Hành cho đúng Đạo. Nên trong chiều hướng đó qua khuôn khổ bài này tôi mạo muội nhắc lại ý nghĩa nguyên thủy của hai chữ Lễ và Văn. Theo thiển ý tôi, chữ Lễ viết theo lối cổ là bộ "kỳ" kép với bộ "nhân". Kỳ là nghĩa lễ tế (thần) và Nhân là con người, nên Lễ có nghĩa sơ thủy là "Tự tế" nghĩa là tế cái đức Nhân tự nơi mình. (Từ đó sau này mới có tiếng "tử tế" có nghĩa là người có nhân đức vì biết cứu trợ giúp đỡ (tế độ) người khác vượt qua khó khăn). Cho nên Lễ có nghĩa là quy về Tâm để tế, tức là sống ý thức cái Nhân tự Tính là Bản gốc tự Nhiên của con người là "giao chỉ" của đức Trời và Đất. Còn hai chữ "Tế tự" là nghĩa lễ cúng tế Trời Đất theo thời tiết, theo mùa, theo năm, nhưng cũng có nghĩa là lễ tế Nhân vì con Người có đức Tính của Thiên lẫn Địa. Vì vậy Lễ là tôn trọng Nhân Tính là sống Nhân Đạo, vì nguồn gốc nguyên thủy của Lễ là Nhân, là Đạo tức chính là một Tính của Thiên Đạo đó là Từ Bi Bác Ái. Cho nên Lễ thật sự là những gì từ trong tâm (vô vi) tỏ lộ ra ngoài (hữu vi) mà không chú trọng tới đối tượng màu mè, hình thức hay sắc thái bên ngoài, nhưng chỉ ráng yêu thương hết mọi người bằng tấm lòng chân thật. (An thổ đồn hồ nhân, cố năng ái.) Do đó phải học Lễ mới biết Lễ thực sự thì mới đạt được Nhân (Bi), mà đạt được Nhân tức là đạt Trí Dũng đó thôi ! Cho nên dưới Nho giáo Lễ được coi là điều kiện tiên quyết để sống cái Nhân Tính của mình bằng cách gieo rắc tình thương cho tha nhân. Do đó dưới thời Khổng Tử Lễ được nhắc lại là phải "dụng tình", đó là cái đích tối cao của Lễ như câu: "Giáo dân tương ái, thượng hạ dụng tình, lễ chi chí dã" (Kinh Lễ 21.3), hay nói cách khác, phải có Lễ để làm cho dân biết hỗ tương yêu quý kính trọng nhau, trên dưới dụng tình hơn lý, thì đó mới là Lễ. Từ đó Lễ được hiểu với nghĩa "tương giao" là lễ nghĩa, lễ nghi, lễ phép, lễ độ, lễ lạc, lễ tế, lễ tục,... như không biết bao nhiêu thứ lễ tục đã có từ xa xưa (mà nhiều lễ ngày nay không còn được biết) : lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ đại liệm, lễ đại tường, lễ động quan, lễ bái quan, lễ cầu thân, lễ hạ rộng, lễ khao vọng, lễ khiển điện, lễ lệ bì, lễ mở cửa mả, lễ minh tinh, lễ nạp cát (lễ nạp kiết), lễ nạp tệ (lễ nạp tài), lễ nạp thái, lễ nạp trưng, lễ nhập quan, lễ nhị hỉ, lễ phạn hàm lễ phản bái, lễ phản khóc, lễ phục hồn, lễ quan ôn, lễ sơ ngu, lễ sơ vấn, lễ siêu độ, lễ kỳ an (siêu), lễ tạ mã, lễ tế thổ thần, lễ tái ngu, lễ tam ngu, lễ thỉnh kỳ, lễ thân nghênh, lễ thành phần, lễ thành phục, lễ thiên cữu, lễ tiểu liệm, lễ tiểu tường, lễ trừ phục, lễ triêu tịch điện, lễ vấn danh, lễ yết tổ, v.v... Để nói, đời sống con người là một cuộc lễ vô tận với chiều kích vô biên còn gọi là Nhân Đạo, nhưng vì người ta chỉ thấy sắc thái bên ngoài và bám vào đó, rồi quên mất đi cái nghĩa nguyên thủy của Lễ là ở bên trong nơi Tâm là Nhân Tính con người. Do đó mà phải "khắc kỷ phục lễ" thì mới có Nhân để mà sống Đạo làm người, cho nên chuyện đầu tiên là "tiên học lễ" rồi mới "hậu học văn". Nhưng Văn không phải là nghĩa "văn chương hiến pháp" như hầu hết mọi người đã hiểu từ xưa nay, mà là Văn Hóa theo nghĩa cao quý nhất của hai chữ văn hóa, tức là lấy cái Nhân của Văn, chính là của người mình để mà cảm hóa, giáo hóa chính mình (tu kỷ dĩ an nhân) thì mình mới là Nhân rồi mới chinh phục và an định được lòng người. Vì vậy Văn ở đây phải hiểu là "Văn đạo" đồng nghĩa với "Nhân đạo" tức là đạo làm Người. Cho nên khi nói Văn mà hiểu là văn hóa với văn thơ tác phẩm thì mình đã hiểu sai lạc với nghĩa nguyên thủy rất xa rồi ! Vì Văn viết với bộ "văn" là 2 nét nghiêng thành dấu chéo (nhân) như chữ "nghệ", kép với bộ "đầu" (với nghĩa trên cùng), tức với nghĩa nguyên thủy là năm màu kết hợp lại thành màu sắc mà không tạp loạn, như câu trong Kinh Lễ : "ngũ sắc thành văn nhi bất loạn". Tương tự như câu trong sách Luận Ngữ viết : "Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí": người là cái đức (cái hoạt lực) của thiên địa, là giao điểm của âm dương, nơi quỷ thần tụ hội, là cái khí tinh tế của ngũ hành. . "Vì thoạt mở lại chồng sách cổ, chúng ta đã thấy quan niệm Khí bao trùm khắp cả cõi học Viễn Đông. Có thể nói tất cả xây trên quan niệm âm dương nhị khí. Cho nên ngay đời hậu Hán đã có cả một triết thuyết về Khí luận của Hà Hưu chẳng hạn (xem Đại cương 191). Hay những người không chủ trương khí luận cũng vẫn chấp nhận. Khi đọc Đổng Trọng Thư chúng ta gặp chữ Khí có cả trăm lần. Trang Tử nói : người ta sinh ra là do khí tụ. Khí tụ thì sống, khí tán thì chết. Cho nên nói rằng "khắp cả gầm trời đều là khí mà thôi". Nhân chi sinh dã khí chi tụ dã, tụ tắc vi sinh, tán tắc vi tử, Cố viết : thông thiên hạ nhất khí nhĩ. (Đọc chương Khí luận trong Đại cương tr.190). Các tác giả lớn nhất như Chu Hy vẫn nói Lý khí (Nho giáo, Trần Trọng Kim II, tr.157) và Lục Tượng Sơn : "thiên địa diệc thị khí", trời đất cùng là Khí (Nho giáo, Trần Trọng Kim II, tr.148). Hệ từ IV viết : "Tinh khí vi vật" = khí tinh tuyền làm nên vạn vật." (Kim-Định/VTNL) Nên có thể nói "ngũ sắc thành Văn" có nghĩa tương tự như "ngũ hành chi tú Khí" với nghĩa nguyên thủy là Nhân tức là người có khí có văn. Cho nên Văn cũng là nghĩa màu sắc, văn vẻ, văn hoa bên ngoài được biểu lộ ra với cái Tình hướng Thiện, thích Chân, chuộng Mỹ của con người do cái Nhân Tính từ bên trong khi được "tự tế" bằng Lễ. Đó là ý nghĩa của Văn Hóa, nghĩa là dùng tất cả những liên hệ tương quan giữa con người với trí, nhân, dũng, qua ý, tình, chí để sống chân, thiện, mỹ. Hay nói cách khác Văn là tất cả những gì làm cho con người cảm hóa để tiến hóa, mở ra tới tận chiều kích vô biên để thành Nhân, thành Tính, thành Thần. Nên nhờ văn hóa đó mà tổ tiên chúng ta đã thiết lập được một hoàng kim thời đại (thời Hòa Bình cách nay lối trên 10 ngàn năm) kêu là Bình văn, nghĩa là nền Thái bình do Văn trị. Ngày nay, có những dấu chỉ cho thấy nhân loại đang quằn quại để chuyển hướng vì thiếu Lễ lẫn Văn, chúng ta đã thấy hiện nay xã hội của các xứ văn minh tân tiến với chủ thuyết dân chủ tự do, cũng đã bị xáo trộn vì đầy vô lễ, bất công nên gây ra bất mãn, ganh ghét, hận thù,... Người dân cũng còn phải xuống đường để đòi nhân quyền và bình đẳng như là đòi ăn, đòi uống thì mới may ra mới có chứ cũng đâu có cách tự nhiên nhờ "nhân chủ" ! Chính vì dân chúng của những xã hội tự do này bất đồng, bất mãn nên mới sinh ra đủ thứ tệ nạn như bạo lực, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, hay khinh ghét người không cùng tư tưởng hoặc văn hóa, v.v... Nên xét cho cùng thì sự sa đọa của con người cũng tại thiếu tâm linh, không còn biết Nhân Tính của mình, để tự tế, tự trọng, tự kính. Vì không biết sống với Tâm linh thì làm sao có lễ nghĩa đối với người khác bằng kính trọng để người khác trọng kính mình, chớ đừng nói là phải biết yêu thương nhau mà mọi tôn giáo đều khuyên dạy mình với "từ bi bác ái" ! Do đó tâm linh là điểm tối yếu cho Lễ đạo và Văn đạo mà chỉ có câu "tận kỳ tính" mới bao hàm được đủ ba đức tính : nhân bản, nhập thể, và hiện thực. Vả lại chữ Tính (ghép bởi chữ "tâm" và chữ "sinh") hàm chứa yếu tố tâm linh, tức là làn sóng mênh mông sáng láng tràn ngập vũ trụ mà con người là Nhân (tài) có nghĩa vụ phải tham dự vào, và một khi đã hiện thực tới nơi cái Tính thì không những biết người mà biết luôn cả Trời Đất muôn vật nữa như câu "tận kỳ tính tắc tri thiên, tri địa, tri nhân cập vật giả". Viết xong, ngày 30 tháng 9 năm 2009. (tức 12 tháng 8 năm Kỷ Sửu) Nguyễn Sơn Hà |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét