Powered By Blogger

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011

Chiến lược về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ để phát triển kinh tế.

GS-TS Nguyễn Vân Nam (CHLB Đức)

Các Nước Phát Triển (CNPT)  đã sử dụng quyền SHTT như một công cụ chính trị-kinh tế đắc lực để hỗ trợ sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế. Bảo hộ Sáng chế được CNPT sử dụng như một công cụ đặc biệt để: Định hướng phát triển công nghiệp; Hấp dẫn đầu tư có chọn lọc;Thúc đẩy chuyển giao công nghệ; Thúc đẩy phát huy sáng kiến cải tiến khai thác công nghệ; Bảo vệ doanh nghiệp trong nước;và Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong thời đại Toàn cầu hóa, quyền SHTT đã trở thành một yếu tố hấp dẫn đầu tư quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp.

I. Ảnh hưởng của quyền SHTT đến phát triển Kinh tế.

Cho đến những năm 70 của thế kỷ trước, vốn tài chính và sức sản xuất vẫn được coi là yếu tố quyết định phát triển kinh tế. Nhưng vào những năm 80, lý thuyết phát triển kinh tế  này đã tỏ ra bất lực trong việc giải thích, giải quyết các hiện tượng tăng trưởng mới. Ra đời sau đó, lý thuyết tăng trưởng kinh tế trên cơ sở tri thức và tính không hoàn thiện của thị trường đã nhanh chóng trở thành cơ sở lý luận quan trọng nhất khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Ngày nay, hiệu qủa hình thành và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định phát triển kinh tế.
a) Ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước giàu với các nước nghèo (Quan hệ Bắc-Nam)
Khi một nước ĐPT theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế, nó cần phải có Know-How, cần tri thức. Đây là một thách thức rất lớn đối với đa số CNĐPT. Bởi sự cách biệt giữa nước nghèo và nước giàu trong việc tạo ra và thu nhận tri thức còn lớn hơn rất nhiều so với khác biệt thu nhập tính theo đầu người. Bên cạnh sức mạnh kinh tế, sự hoạt động có hiệu qủa của cơ quan công quyền, viện nghiên cứu v…v thì hiệu qủa hoạt động sản xuất tri thức cũng là một nguyên nhân quan trọng làm nên sự khác biệt này. Như vậy, hoạt động sáng tạo sẽ được mở rộng và phát triển tốt ở những nơi đã có sẵn: a) Các tổ chức Nghiên cứu; b) Sự phối hợp hoạt động tốt của mạng lưới các tổ chức nghiên cứu, dịch vụ và sản xuất; và c) Ở những nơi mà các kết qủa nghiên cứu trước đó dễ dàng được mở rộng và áp dụng. Điều này dẫn đến hệ qủa là hoạt động Nghiên cứu & Phát triển sẽ chỉ tập trung ở một vài trung tâm, một vài quốc gia. Nói một cách khác: các nước nghèo có thể sẽ bị gạt ra bên lề qúa trình phát triển chung.
Đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển là điều kiện tiên quyết để hình thành, sáng tạo và sử dụng tri thức. Nhưng đây cũng là sự đầu tư với kết qủa thường là không chắc chắn. Vì vậy, CNPT sử dụng quyền SHCN như một công cụ kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển.  Hiện tại, phần lớn thành qủa sáng tạo hình thành tại các nước giàu. CNPT sản xuất sản phẩm mới. Chúng được chuyển dần sang sản xuất hàng loạt, tiêu thụ tại CNĐPT qua con đường chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp. Cạnh tranh sản xuất-tiêu thụ tại CNĐPT gây sức ép ngược lại buộc các nước công nghiệp phải giữ được nhịp độ sáng tạo. Như vậy, bảo hộ SHTT-mà đặc biệt là Sáng chế- ở CNĐPT thúc đẩy chạy đua sáng tạo ở CNPT, đồng thời gây trở ngại cho hoạt động sản xuất mô phỏng, làm chậm việc chuyển cơ sở sản xuất đến CNĐPT. Nhìn chung, CNĐPT là người thua thiệt trong qúa trình này.  Thêm vào đó, qúa trình tiếp nhận, sáng tạo tri thức ở CNĐPT không được hỗ trợ đầy đủ để có thể bù đắp những hậu qủa tiêu cực của việc bảo hộ SHTT.
Có thể khẳng định rằng, mức độ đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển sẽ quyết định hiệu qủa bảo hộ và sử dụng SHCN mà đặc biệt là Sáng chế. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi sự phát triển kinh tế quốc dân đạt được một trình độ nhất định. Do đó, các chính sách quốc gia nhằm thu hút đầu tư từ các nước công nghiệp vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển ở nước ta phải trở thành một chiến lược trọng tâm.
b) Ảnh hưởng đến đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển
Bảo hộ SHCN cũng cần phải được sử dụng để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển. CNĐPT hy vọng thông qua bảo hộ chặt chẽ SHCN sẽ:
-                Nâng cao mức chi chung (toàn cầu) cho Nghiên cứu & Phát triển. Từ đó, được hưởng lợi dưới hình thức gia tăng xuất khẩu và đẩy mạnh tiếp nhận chuyển giao công nghệ do sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu đem lại.
-                Đẩy mạnh, khuyến khích hơn nữa những sáng tạo, giải pháp kỹ thuật đặc biệt nhằm giải quyết những nhu cầu riêng biệt của mỗi nước.
-                Tạo cơ sở căn bản để phát triển lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển của chính mình.
c) Ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty xuyên quốc gia.(CTXQG)
Các CTXQG sẽ quyết định chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp, thay cho xuất khẩu, vào một nước ĐPT khi ở đó quyền SHTT được bảo hộ đủ mạnh. Tất nhiên điều này chỉ đúng khi các điều kiện khung khác cũng được thỏa mãn. Nghĩa là chỉ có nước ĐPT nào đang triển khai tốt hoạt động Nghiên cứu & Phát triển mới có nhiều cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp của các CTXQG. Có ba tiêu chí OLI được các CTXQG sử dụng khi quyết định đầu tư trực tiếp (OLI: Ownership-Location-Internalization):
- Lợi thế sở hữu (Ownership): CTXQG phải là sở hữu chủ một sản phẩm, hay một qui trình sản xuất mà đối thủ cạnh tranh không có được. Như vậy nó mới có lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp nội địa. Sở hữu này thường dưới dạng Patent, NHHH, kỹ thuật quản lý v…v. Đây là một điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ cho một quyết định đầu tư. Lợi thế sở hữu cũng là một tiêu chí quan trọng nhất để CTXQG quyết định cho phép sản xuất theo Li xăng hay không?
- Lợi thế vùng (Location): CTXQG có thể xuất khẩu sản phẩm vào nước muốn nhận đầu tư. Vì vậy nước đó phải chứng tỏ sản xuất tại chỗ có lợi hơn. Các yếu tố quan trọng nhất là: khả năng đưa sản phẩm vào thị trường; tiền lương, chi phí vận chuyển, chi phí điều hành thấp; thuế thấp, ít trở ngại hải quan, hệ thống pháp luật rõ ràng minh bạch và ổn định. Lợi thế vùng và lợi thế sở hữu quyết định đầu tư trực tiếp hay xuất khẩu.
- Lợi thế quốc tế hóa (Internalization):  sẽ quyết định hình thức hoạt động đầu tư của CTXQG, hoặc là nó sẽ tự điều khiển sản xuất từ nước ngoài, hoặc sẽ liên doanh với doanh nghiệp nội địa.
Bảo hộ SHTT tác động trực tiếp đến lợi thế sở hữu, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp hiện đại. Nó cũng ảnh hưởng đến lợi thế quốc tế hóa. Bảo hộ chặt chẽ SHTT góp phần giảm chi phí hoạt động ngoài công ty, đẩy mạnh xu thế chuyển giao công nghệ theo Li xăng và liên doanh chiến lược với các doanh nghiệp nội địa. Vì như vậy sẽ giảm  nguy cơ bị bộc lộ bí mật.  Đối với nhiều doanh nghiệp của CNĐPT hàng đầu, liên minh chiến lược với các CTXQG là con đường quan trọng nhất để nhận công nghệ hiện đại và giúp họ thâm nhập được vào những lĩnh vực kỹ thuật cao quan trọng.
d) Ảnh hưởng đến chuyển giao công nghệ
Bảo hộ SHTT có ảnh hưởng rất khác nhau đến từng nước ĐPT và cho từng ngành sản xuất, kinh doanh. CNĐPT đã có hoặc đang triển khai hoạt động Nghiên cứu & Phát triển riêng sẽ được hưởng lợi từ chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các công nghệ tiên tiến. Trong khi các nước chậm phát triển hơn sẽ chịu thiệt thòi do việc bảo hộ SHCN hầu như không có ảnh hưởng tích cực nào đến chuyển giao công nghệ vào các nước này.
Chúng ta có thể thấy rằng, quyền SHTT chỉ có thể đem lại lợi ích phát triển quốc gia khi những lợi ích thu được từ việc áp dụng, phổ biến  trí thức- trên cơ sở hoạt động Nghiên cứu & Phát triển- bù lại được những phí tổn cho việc bảo hộ quyền. Do đó, chiến lược SHTT quốc gia gồm hai mặt cơ bản: Bảo hộ quyền (khuyến khích sáng tạo tri thức) và sử dụng quyền (phổ biến, áp dụng tri thức). Nếu như việc bảo hộ quyền nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi kinh tế của Chủ sở hữu và phải tuân theo tiêu chuẩn bảo hộ quốc tế tối thiểu của TRIPS, thì sử dụng quyền ở đây phải được hiểu là các chính sách quốc gia nhằm mục tiêu chính là xây dựng lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển bằng công cụ quyền SHTT. Đối với nước ta-một nước ĐPT trung bình- thì trọng tâm của chiến lược SHTT quốc gia phải là sử dụng quyền trên cơ sở chú ý thích đáng đến bảo hộ quyền chứ không phải lấy bảo hộ làm trọng tâm như hiện nay.

I I. Chiến lược SHTT quốc gia.

Vào năm 1999, ngân hàng thế giới WB đã đưa ra một chiến lược phát triển cho CNĐPT để giảm bới cách biệt về tri thức và sử dụng tri thức gồm 03 điểm cơ bản:
(1)         Thu thập tri thức: qua việc mở rộng ra quốc tế để làm quen và thích nghi với tri thức quốc tế hiện tại song song với việc xây dựng hệ thống tri thức quốc gia.
(2)         Hiểu và tiếp nhận được tri thức: thông qua đầu tư vào hệ thống giáo dục, bằng cách đó tạo ra nguồn nhân lực cần thiết để có thể tiếp nhận và sử dụng tri thức.
(3) Khai thác tri thức: qua việc đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển nâng cao khả năng sử dụng các công nghệ mới-chẳng hạn Internet- để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Quyền SHTT ảnh hưởng có tính chất quyết định đối với điểm (1) và (3). Một mặt nó tạo điều kiện cho sáng tạo tri thức thông qua hỗ trợ, khuyến khích sở hữu độc quyền và thúc đẩy qúa trình chuyển giao công nghệ nội quốc gia; mặt khác, lại đồng thời hạn chế- một cách tạm thời- khả năng khai thác tri thức, điểm (3). Chính từ nhận thức cơ bản này, mà TRIPS đã dành quyền quyết định cho các nước thành viên cân nhắc tương quan giữa điểm (1) và (3) để có chiến lược xây dựng hệ thống bảo hộ SHTT cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu phát triển của mỗi nước.
Chính lược quốc gia về SHTT vì thế phải dựa trên cơ sở cân nhắc giữa mục tiêu khuyến khích sáng tạo tri thức và mục tiêu nhanh chóng phổ biến, áp dụng  tri thức cho từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tầm quan trọng của quyền SHTT đối với mỗi ngành kinh doanh, sản xuất là rất khác nhau. Nó  có giá trị lớn nhất đối với các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành đòi hỏi đầu tư lớn trong Nghiên cứu & Phát triển; sản phẩm phụ thuộc vào trình độ cao của nhân viên và tương đối dễ bị ’’bắt chước’’ dễ bị tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lạc hậu. Ví dụ: Công nghiệp hóa chất và dược phẩm, công nghiệp sản xuất hàng điện tử tiêu dùng, phát triển phần mềm máy tính.
Chiến lược vĩ mô của Nhà nước, vì vậy, phải là một chiến lược toàn diện liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như: chính sách thuế, chính sách chuyển giao công nghệ và Li xăng, chính sách nhập khẩu song song, chính sách ưu đãi đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển, chính sách Giáo dục-Đào tạo, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp v…v. Khi nghiên cứu xây dựng chiến lược này cần chú ý đến một số điểm trọng tâm như sau:
-                Tác động hai mặt của bảo hộ SHTT: khuyến khích sáng tạo và nhanh chóng phổ biến tri thức, sử dụng thành qủa sáng tạo trong xã hội. Chiến lược sử dụng bảo hộ SHTT vì vậy phải xác định cần khuyến khích tác động nào trong từng giai đoạn phát triển kinh tế cụ thể.
-                Ảnh hưởng rất khác nhau của việc bảo hộ SHTT đối với từng lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ; và lên từng ngành cụ thể trong những lĩnh vực này.
-                Mục đích kinh tế cuối cùng của chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp phải là khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển của mình, góp phần nâng cao hiệu qủa và trình độ hoạt động Nghiên cứu & Phát triển quốc gia.

I I I.  Chiến lược sử dụng  quyền SHTT cho một số lĩnh vực quan trọng nhất

Dược phẩm

Vấn đề lớn nhất trong chính sách đối với ngành dược phẩm- cũng như công nghệ sinh học- là giải quyết tối ưu quan hệ giữa ảnh hưởng trước mắt và tác dụng lâu dài của bảo hộ SHCN. Trong ngắn hạn, bảo hộ SHCN sẽ cản trở việc đáp ứng một số nhu cầu căn bản (ví dụ: nhu cầu thuốc trị bệnh hiểm nghèo), nhưng về lâu dài nó lại là một công cụ khuyến khích sáng tạo rất quan trọng.  Có 03 khía cạnh cần chú ý đặc biệt khi xây dựng chiến lược bảo hộ SHCN cho ngành dược phẩm là:
-                Bảo hộ Sáng chế một cách chặt chẽ như TRIPS yêu cầu sẽ dẫn đến tăng giá thuốc trị bệnh. Do đó trước mắt sẽ gây nhiều khó khăn trong việc đảm bảo cung cấp thuốc chữa bệnh với giá chấp nhận được cho người bệnh.
-                Bảo hộ Sáng chế sẽ đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật của ngành dược. Nhưng nó hầu như không ảnh hưởng được đến Nghiên cứu & Phát triển các loại thuốc đặc trị bệnh thường gặp ở nước ta, do sức mua của thị trường không đủ hấp dẫn đầu tư.
-                Phải cân nhắc kỹ lưỡng chính sách khuyến khích sản xuất mô phỏng, nếu chúng ta muốn xây dựng ngành công nghiệp dược riêng. Vì ở ta chưa xuất hiện các doanh nghiệp đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh có thể tận dụng được lợi ích của bảo hộ chặt chẽ sáng chế trong dược phẩm.
Đặc điểm trong sản xuất dược phẩm là chi phí Nghiên cứu & Phát triển rất cao, trong khi chi phí sản xuất mô phỏng tương đối thấp. Vì vậy, bảo hộ Sáng chế được các CTXQG sử dụng như một công cụ hiệu qủa để nâng giá sản xuất mô phỏng và bảo đảm lợi nhuận từ vị trí độc quyền. Hiệp định TRIPS mở ra những khả năng khác nhau cho chúng ta chống lại việc tăng giá dược phẩm một cách qúa đáng như vậy: a)TRIPS không cấm kiểm soát giá dược phẩm theo cách mà các nước công nghiệp phát triển vẫn thực hiện; b) Mỗi nước có quyền quyết định cho phép nhập khẩu song song thuốc trị bệnh hay không; và c) Mặc dù các nước thành viên phải giữ đúng những điều kiện tiên quyết cho việc ban hành lệnh cưỡng bức nhượng quyền sản xuất, nhưng chúng vẫn có thể được thay thế để  điều chỉnh hành vi độc quyền thị trường của chủ sở hữu quyền (CSHQ).
Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là ngành công nghiệp then chốt của tương lai. Trọng tâm của nó là kỹ thuật Gen và sinh học phân tử với dấu hiệu đặc trưng trong hoạt động là biến đổi phần tử sống và đưa chúng vào các sản phẩm mới.  Cũng như các ngành kỹ thuật cao khác, công nghệ sinh học tập trung ở CNPT. Nhưng Việt nam cũng giữ một vai trò không kém phần quan trọng trong tư thế nhà cung cấp nguyên liệu, vì có nguồn cung cấp đầu vào quan trọng cho công nghệ sinh học; có nguồn dự trữ gen động thực vật có khả năng khai thác thương mại và có kinh nghiệm truyền thống đặc biệt của người dân về loại cây con nào có thể được sử dụng cho mục đích gì.
Hiệp định TRIPS củng cố vị thế của các CTXQG trong lĩnh vực Công nghệ sinh học. Qúa trình trao đổi nguồn phần tử sinh học từ CNĐPT cho các CTXQG như vậy sẽ trở nên khó khăn hơn. Lợi nhuận thu được từ việc trao đổi này sẽ hầu như không bù đắp nổi những bất lợi do bảo hộ SHCN đem lại cho CNĐPT. Chính sách sử dụng quyền SHCN trong Công nghệ sinh học phụ thuộc chủ yếu vào việc xây dựng hệ thống bảo hộ cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và đáp ứng quan hệ giữa các CTXQG trong vai trò người mua nguyên liệu và nước ta trong vai trò nhà cung cấp.  Chính sách bảo hộ SHCN đối với Công nghệ sinh học cần đặc biệt chú ý đến ảnh hưởng của xu thế muốn mở rộng phạm vi nhu cầu bảo hộ của Patent. Xu thế này trong bảo hộ Sáng chế cho công nghệ gen và qui trình sản xuất Công nghệ sinh học sẽ cản trở doanh nghiệp Việt nam đặt chân vào thị trường; thậm chí có thể còn cản trở tiến bộ khoa học kỹ thuật ở nước ta. Điều rất dễ xẩy ra là việc cấp Patent cho những gen di truyền đơn lẻ chẳng hạn, sẽ cản trở phát triển sản phẩm mới. Vì các nhà nghiên cứu khác không được quyền sử dụng gen này cho các chức năng khác nhau, mặc dù CSHQ không biết các chức năng này.
Bảo hộ chặt chẽ SHCN trong lai tạo giống cây trồng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Họ sẽ không có có hội tiếp cận nguồn gen cây trồng. Điều này có thể gây ra hậu qủa tiêu cực cho kinh tế và môi trường.   Ở nhiều NĐPT đang xuất hiện mâu thuẫn quyền lợi gay gắt giữa nông dân và các công ty cung cấp giống. Nhà tạo giống hưởng lợi nhiều hơn từ việc bảo hộ giống một cách chặt chẽ; ngược lại, nông dân phải chịu chi phí sản xuất cao hơn. Ngoài ra, phải tính đến nguy cơ mất các giống loài đặc trưng, phù hợp với điều kiện truyền thống ở từng nước. Do nó sẽ bị thay thế bởi các giống loài có hiệu qủa kinh tế cao hơn, nhưng theo một tiêu chuẩn thống nhất có tính toàn cầu, vùng, hay ít nhất cũng là không mang đặc tính riêng của từng quốc gia. Điều này không những làm mất đi sự phong phú chủng loại, mà về lâu dài còn ảnh hưởng xấu đến cân bằng sinh thái tự nhiên.
Theo kinh nghiệm của một số nước ĐPT, bảo hộ tốt nguồn sinh học, giống loài động thực vật là công việc cấp bách và nằm trong tầm tay mỗi nước ĐPT. Chúng ta nên kết hợp bảo hộ dưới dạng Patent và bảo hộ theo CBD (Convention on Biological Diversity). Vì là nước thành viên CBD, ta có quyền ban hành những qui định về việc khai thác các nguồn dự trữ sinh học trong tự nhiên, về phân chia lợi nhuận và về chuyển giao công nghệ.
Công nghệ phần mềm máy tính
Đối với nước ta, sử dụng và phổ biến phần mềm máy tính giữ một vai trò rất quan trọng trong phát triển đất nước. Phần mềm máy tính không chỉ là một sản phẩm, mà còn là một công cụ cho hầu hết các hoạt động kinh tế. Bảo hộ SHTT ngăn cản sao chép bất hợp pháp, làm tăng giá và vì vậy cũng cản trở phổ biến, sử dụng rộng rãi phần mềm máy tính. Nhưng bảo hộ SHTT  khuyến khích phát triển phần mềm mới và vẫn tạo cơ hội thâm nhập thị trường cho các nhà sản xuất mới. Vấn đề đặt ra là: phải có một chính sách thích hợp ,sử dụng những công cụ khác, để cân đối những bất lợi do việc tăng giá phần mềm máy tính gây ra.
Thị trường thế giới về chương trình máy tính gồm chương trình căn bản và chương trình chuyên dùng. Trong khi chương trình căn bản chủ yếu do một số ít các CTXQG lớn sản xuất, thì có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các chương trình chuyên dùng. Ở đây, bên cạnh hoạt động lập trình, các dịch vụ phối thuộc cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.
Thời kỳ những năm 60 và 70, chương trình máy tính được bảo hộ dưới hình thức bí mật thương mại. Sau đó  Hoa kỳ dùng quyền tác giả như một công cụ để bảo hộ nó. Điều này đem lại các lợi điểm là Chương trình máy tính sẽ dễ dàng được công nhận bảo hộ với thời gian dài và từng phần của chương trình có thể được người khác sử dụng, phát triển thành chương trình mới mà không vi phạm quyền tác giả. Ngày nay, chương trình máy tính còn có thể được bảo hộ dưới dạng Patent. Tuy nhiên, TRIPS chỉ qui định phải bảo hộ chương trình máy tính dưới dạng quyền tác giả.
Sản xuất chương trình máy tính có thể trở thành nghành công nghiệp quan trọng của tương lai ở nước ta. Nhà sản xuất chương trình của ta (phần lớn là loại nhỏ) phụ thuộc rất nhiều vào tính không phụ thuộc, có thể sử dụng riêng rẽ của các chương trình máy tính căn bản do các CTXQG sản xuất để phát triển các chương trình chuyên dùng của mình. Vì vậy, bảo hộ chặt chẽ chương trình máy tính dưới hình thức Patent sẽ gây trở ngại cho công nghiệp sản xuất chương trình máy tính ở Việt nam.  Ảnh hưởng của bảo hộ SHTT đến việc sử dụng chương trình máy tính kém rõ rệt hơn, nhưng mang tính hai mặt. Một mặt, nó làm tăng chi phí tiếp cận. Nhưng mặt khác lại khuyến khích sử dụng các chương trình đồng bộ, cũng như có thể tạo thuận lợi hơn cho việc tiêu thụ chương trình của các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, hiệu ứng chung của hai ảnh hưởng này phụ thuộc vào trình độ phát triển mỗi nước. Quốc gia nào còn nhu cầu lớn về sử dụng các chương trình căn bản, thì ở đó việc sao chép chúng vẫn phục vụ cho lợi ích chung. Như vậy, CNĐPT nghèo sẽ phải chịu thiệt thòi rất lớn khi bảo hộ chặt chẽ chương trình máy tính. Do đó, khi xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất chương trình máy tính tại nước ta, nên chú ý các điểm sau đây:a) Chưa nên áp dụng các hình thức bảo hộ SHCN khác ngoài quyền tác giả như TRIPS yêu cầu; b) Có các nghiên cứu xác định nhu cầu sử dụng chương trình máy tính căn bản. Trên cơ sở đó đề ra các chính sách uyển chuyển khuyến khích hay hạn chế sao chép; c) Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển; d) Có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển chương trình chuyên dụng, đáp ứng nhu cầu địa phương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét