Powered By Blogger

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

SẤM KÝ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

 
I. TIỂU SỬ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 ( 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là "Tuyết giang Phu tử". Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ...
Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tậpTrình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".
Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở".
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài "Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng
Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu
Nghìn năm sau như vẫn một ngày.

II. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI SẤM KÝ
Trong quan niệm của tôi, công việc của người sau là sưu tập, hiệu đính và chú thích tác phẩm của tiền nhân để bảo tồn văn hóa cũ. Việc này đòi hỏi người biên khảo, dịch thuật phải trung thực, khách quan, thấy sao nói vậy, biết gì nói nấy.

Tôi mong rằng sẽ có một nhóm người khảo cứu hết các bản nôm trong thư viện. Một nhóm người khảo cứu tất cả các bản quốc ngữ đã xuất bản. Riêng tôi chỉ phụ trách nghiên cứu một số bản quốc ngữ trong tầm tay.
Hôm nay tôi làm việc này thật ra là chưa được hoàn hảo vì kiến thức còn hạn chế. Hơn nữa không có trong tay các bản nôm và đầy đủ các bản quốc ngữ. Tôi chỉ làm được những gì trong khả năng hạn hẹp của mình.
Dẫu sao thì vạn vật vô thường, mục đích của tôi là cố lưu lại những vốn cũ của tiền nhân, và giúp bạn đọc một số tài liệu mà tôi đã thu thập và nghiền ngẫm hơn nửa thế kỷ. Làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Vì thích nghiên cứu cổ văn cho nên tôi đã tìm hiểu các tác tác phẩm cổ. Nguyễn Bĩnh Khiêm được nhân dân ta ca tụng vì khí tiết thanh cao và tài thơ văn. Thi văn của Ngài có thơ chữ Hán và thơ Quốc Âm. Thơ Quốc Âm gồm có thơ nôm và Sấm Ký. Câu chuyện Nguyễn Hoàng và con cháu họ Trịnh tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là chuyện thực, liên hệ đến lịch sử chứ không phải là giai thoại.

Tại thư viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội và Viện Khảo Cổ Sai gon đều có vài bản Sấm Trạng Trình bản nôm chép tay. Trước 1945, chúng tôi thấy các bậc cha chú đọc các bản Sấm Ký Quốc Ngữ. Trong khi vào Nam, tôi cũng mượn bạn bè các sách Sấm ký rồi chép lại vì trong thời gian chiến tranh, sách xưa đã tuyệt bản nên rất hiếm hoi, chỉ cho mượn trong thân hữu chọn lọc..

Sau 1975, xem danh mục thư viện thì thấy có tên sách, nhưng tôi không dám mượn vì e ngại công an theo dõi, và kết tội dùng sấm để "yêu ngôn hoặc chúng". Tôi chỉ âm thầm tìm kiếm, và thu thập được một số.

Tại miền Nam, Sấm Trạng Trình in bằng quốc ngữ từ sau 1945 cho đến 1975 cũng có gần hai chục quyển. Sau 1975, tại Hà Nội cũng có một vài quyển gọi là. Thư viện Viễn Đông Bác Cổ nay là thư viện khoa học Xã hội có gần 20 bản Sấm Ký nôm. Thỉnh thoảng có vài người giới thiệu sơ sài mà không trích dẫn câu nào. Nhà nghiên cứu không dám đi sâu vào sợ bị gán cho cái tội duy tâm thần bí, tuyên truyền phản động thì muôn kiếp phải sống trong lao tù.

Ông TrầnVăn Giáp chuyên về chữ Nôm, ông biên tập các nhan đề sách chữ Nôm và Hán thành bộ " Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm 2 quyển", nhưng ông không kê khai lấy danh hiệu một bản dù trong thư viện có hàng chục bản "Sấm Trạng Trình". Theo nguyên tắc nghiên cứu, ông cứ ghi tên sách, số hiệu sách nhưng ông có thể nói là sách ghi vậy nhưng e không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đỏ quá hay ông sợ cộng sản quá, không dám ghi lấy tên sách và số hiệu sách vì sợ dân chúng sẽ vào lục tìm. Ông muốn giấu sách nếu không nói là muốn đốt sách, chôn sách. Ông phủ nhận sự hiện hữu của Sấm Trạng Trình. Ông viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm:
"Ông là người nổi tiếng học rộng, nghiên cứu dịch kinh, chuyên về lý học, tinh thông khoa tính Thái Ất, cho nên người ta lợi dụng cái học của ông truyền tụng nhiều câu sấm nói là của ông, để tuyên truyền và mê hoặc mọi người." (THKSHN I, 87).
Thiết tưởng con người ta trong xã hội có người không tin bói toán, không tin thần thánh, nhưng một số rất tin. Bói toán mà sai thì cũng đương nhiên vì đó là khoa học không chính xác, Ta cần xem thời tiết nhưng các bản tin thời tiết không phải lúc nào cũng đúng, nhưng không phải vì thế mà dẹp bỏ ngành thiên văn, khí tượng và nghiên cứu không gian. Đừng có theo tây phương vài năm, theo cộng sản vài giờ mà cho mình là có óc khoa học.

Karl Marx và các ông cộng sản đề cao khoa học, luôn làm ầm ỉ về thành tích khoa học trong khi bên tư bản người ta im lặng làm mà thành quả vượt Liên Xô, Trung Quốc! Marx tự hào là khoa học nhưng những tiên đoán, những ước vọng, những chính sách vĩ đại của Lenin, Stalin và Mao đã sụp đổ thảm thương! Ông thầy mu ruà ờ Lăng Ông Bà Chiểu, hay ông thầy tử vi ở chùa Trấn Quốc chỉ ăn vài ngàn bạc hay chục ngàn bạc Việt Nam mà không làm hại ai, còn lão tổ Karl Marx tiên đoán tầm bậy gây cho cái chết hàng trăm triệu người!

Ai bảo người Pháp mê tín? Tại Pháp có mấy ngàn hay mấy chục ngàn thầy bói, và hàng chục người viết về Nostradamus, có ai cấm đóan hay chê bai dân Pháp? Ai bảo nước Mỹ dị đoan lạc hậu? Nghe nói người Mỹ có lúc đã dùng "thiền" để liên lạc với tàu vũ trụ đó sao? Trong chiến tranh Việt Nam khoảng 1970, một người Mỹ có đến hỏi giáo sư Bửu Cầm ở Sài gon:
"Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì" Có phải có thủy chiến ngoài các đảo không?
( Trong khoảng 70-90, tôi thường đến thăm GS Bửu Cầm được thầy thuật lại việc trên) và gần đây ông Nguyễn Văn Hiệp có thuật việc CIA lấy cắp bản ghi chép của thiếu tướng Nguyễn Văn Chức về tiên đoán của ông đạo Nhỏ.

Người ta khoa học văn minh như thế mà còn nghiên cứu huyền học, dùng chiêm tinh còn chúng ta được kiến thức khoa học bao lăm, nhất là cái khoa học xuyên tâm liên và bèo hoa dâu mà lên mặt khinh thế ngạo vật ư?

Ở đâu cũng có kẻ gian dối. Đâu có phải vì bọn bán thuốc ê, vì bọn lang băm lấy cơm khô trộn mật làm thuốc mà ta đốt sách y, bắt nhốt và giết tất cả người hành y? Ví như có kẻ làm giả sấm ký, sửa đổi vài chữ, vài câu, vài đoạn, ta không nên vội vơ đũa cả nắm bảo là là hàng mạo hóa mà quăng đi hoặc đốt hết sấm ký. Trái lại,người nghiên cứu lại càng phải gia công nghiên cứu hơn, tìm hiểu, phân biệt giả chân, tốt xấu. Không thể dễ dàng phủ nhận cũng không nên vội vàng tin tưởng trước khi suy nghĩ và xem xét.
Tôi nghiền ngẫm Sấm ký từ lâu, chỉ hiểu vài đoạn. Sau khi xem Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh của Bửu Sơn Kỳ Hương, tôi nhận thấy sức mạnh tâm linh của Phật giáo, của Lý học và Đạo học. Và quả là có phương pháp tu đạt đến cái nhìn xuyên suốt quá khứ vị lai và cũng có người có tài năng thấy trước. Tôi cũng đọc Toàn Thư trong đó có nhiều huyền bí và đúng. Tôi lại càng nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một bậc khải thánh chứ không phải là tầm thường cho nên tôi cố gắng tìm hiểu chứ không coi rẻ như các vị khác mang tâm sắt đá hoặc tâm dun dế.

Mình không hiểu vì mình bị vô minh che lấp chứ không phải ta thông minh mà sách nói vu vơ, và hiền thánh điên khùng. Trước khi khoa học tìm ra kính hiển vi và kính viễn vọng, đức Phật đã thấy những vật cực tiểu và những vật cực đại hay sao? Nay thì khoa học cho thấy ngoài Thái dương hệ của ta còn có nhiều Thái dương hệ khác. Mắt ta lòa chứ không phải thế giới đen tối, vạn vật hư vô như những ai đã kiêu căng chế nhạo. Sự thực các bạo chúa đã sợ khoa chiêm tinh và báo chí. Họ mượn danh khoa học để bịt miệng và che mắt nhân dân!

Một vài người phủ nhận Sấm Trạng Trình vì cho rằng những bản trên là do người sau chế tác. Người ta cho rằng văn chương trong đó rất mới, đời Mạc chưa có lối lục bát.
Nhận xét này khá đúng, có những bản Sấm ký, có những đoạn người sau ở triều Nguyễn chế tác hoặc thêm vào. Nhưng xem kỹ, các bản Sấm ký có đủ thể loại thi ca, có lục bát, song thất lục bát thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ thuyết, ngũ ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn tràng thiên.
Thể lục bát là thể xưa trong ca dao, và cũng đã thể hiện trong các truyện xưa như truyện Trinh Thử, hoặc Gia Huấn Ca, còn song thất lục bát cũng là một thể khá xưa như Lê Đức Mao (1462-1529) , với bài Nghĩ bát giáp thưởng đào văn:
Xuân nhật tảo khai gia cát hội,
Hạ đình thông xướng thái bình âm.
Tàng câu mở tiệc năm năm,
Miếu Chu đối việt, chăm chăm tấc thành.
Hương dâng ngào ngạt mùi thanh,
Loan bay khúc múa, hoa quanh tịch ngồi;"

Song thất lục bát tuyệt diệu như trên thì trước đó thơ lục bát tất cũng điêu luyện.

III. GIỚI THIỆU CÁC BẢN

Bản nôm hiện ở các thư viện có nhiều, chưa ai ra công khảo cứu. Còn bản quốc ngữ thì nhiều. Sớm nhất là bản của Sở Cuồng do Quốc Học tùng thư ấn hành năm 1930, và bản Nam Ký năm 1945 . Ông Phạm Đan Quế đã giới thiệu khá đầy đủ về các văn bản Sấm ký toàn chép tay trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại thư viện Hà Nội Khoa Học Xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc Gia Hà Nội thì hiện nay còn bảy tài liệu chữ nôm sau đây có Sấm Trạng Trình:
(1)-Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký 25 trang, ký hiệu VNB3
(2)-Trạng Quốc công ký: -2 quyển: VHV 1453/b - 36 trang; VHV 102; 32 trang.
(3)-Trình Quốc công sấm ký : 34 trang: AB345
(4). Trình tiên sinh quốc ngữ : 22 trang: AB444.
(5). Sấm ký bí truyền 34 trang; VHV 2261.
(6). Thiên Nam ngữ lục ngoại ký có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Thượng thư; AB192.
(7). Nhất tích thiên văn gia truyền VHV 1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình.

Ông cũng cho biết các bản quốc ngữ sau:
(1)-Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l' Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi" Bạch Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , reculilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư.
(2)-Phụ trương Khoa Học huyền bí của Tiểu Thuyết Nhật Báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939
(3)-Đông Tây Tiểu Thuyết phát hành ở Nam Định, số Xuân 1940.
(4)-Sấm Ký, nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948.
(5)-Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Saigon 1948.
(6)-Sấm ký của Bùi Xuân Tiến, Nam Ký Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1952.
(7)-Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long, Hà Nội, 1954.
(8)-Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Saigon, 1956
(9)-Trạng Trình Nguyễn BỈnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Saigon, 1957.
(10)-Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh; Phương Thảo, Saigon, 1964.
(11)-Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus của Nguyễn Duy Hinh; Dân Trí, Saigon; 1963.
(12)-Sấm Trạng Trình; trong Thành Ngữ, Điển tích, Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh, Saigon 1966.
(13)- Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Quân; Sống Mới, Saigon, 1974.
(Phạm Đan Quế, Giai Thoại và Sấm Ký Trạng Trình; Văn Nghệ TP HoChi Minh, 1992; 78-79)

1. Bản Mai Lĩnh

Bản này có gốc là bản AB.444 tại Viện Hán Nôm Hà Nội. Tôi may mắn có bản Mai Lĩnh là bản in sau bản Sở Cuồng. Bản mà chúng tôi có trong tay in năm 1939 tại tủ sách một bạn học thời Trung học Huế. Không biết bản Mai Lĩnh xuất xứ từ đâu, nghĩa là trước bản này còn có bản quốc ngữ nào như phiên bản này nữa không. Bản này có hai ưu điểm là:
-bản tương đối sớm nhất, có trước 1945, vì các bản sau này, người ta thêm vào mấy chữ, mấy câu, hoặc bóp méo, xuyên tạc để tuyên truyền.
-Bản này phổ biến nhất vì được nhiều người dùng hoặc in lại.
Bản này khởi đầu:
Vận lành mừng gặp tiết lành và kết thúc: Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.
Có một số câu bị mất, còn lại 487 câu.
Nhiều bản chung gốc này mặc dầu có vài chữ khác nhau vì cách đọc chữ nôm khác nhau và sai chính tả:
-Bản Đông Nam Á, Saigon 1964.
-Bản Hùynh Tâm, Saigon ?
-Wikisource 2010. Bản này tham khảo bản Huỳnh Tâm, Saigon, không rõ in năm nào, có lẽ khoảng thập niên 60.

2. Bản Anh Phương, Saigon 1960? do Hoàng Xuân sưu tập.
Bản này gốc ở bản Nôm A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”.
Cảm đề : Thanh nhàn vô sự là tiên. . .
Mở đầu: Nước Nam từ họ Hồng Bàng/ Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Kết: Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Các bản sau đây chung gốc:
-Tạp chí Thời Tập (1973-1975) của Viên Linh.
-Wikisource 2010
-Bản Trịnh Văn Thanh, 1966.
- Bản Phạm Đan Quế , 1992.

3. Bản HƯƠNG SƠN

Bản này do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Bản này vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn xuất bản trước 1954, sách 70 trang, Sấm Trạng Trình từ trang 48-68.
Khởi đầu: Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng. . .
Kết thúc: Gió mây ta lại đi về gió mây.

Theo một bạn đọc, bản này cũng giống bản Nam Ký phát hành năm 1948 , do Bùi Xuân Tiêu và Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH-2261 của kho sách Viện Viễn Bác Cổ, mở đầu có câu :
"Nước nam thường có thánh tài
Sơn Hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Đảo Sơn
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn. . ."
Bản này có cấu trúc đặc biệt là có nhiều bài thơ theo nhiều loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt,thất ngôn bát cú, lục bát và song thất lục bát.

Bản Bạch Vân Ca của Nguyễn Quân, Sống Mới, Saigon, 1974 giống bản Hương Sơn.


4. BẢN WIKISOURCE 2010

Bản này chép bản Mai Lĩnh 1939 và bản Anh Phương 1960?

Nói chung, dù trên 20 bản, chỉ có ba dị bản chính thức như đã so sánh và trình bày ở trên. sự khác biệt này có thể do nhiều người soạn chứ không phải riêng Trỉnh Quốc Công, vì chính tôi cũng có một bản sấm ký chữ nôm của Trạng Trình và một bản của Phùng Khắc Khoan sẽ trình bày sau. Có những bản cùng nguồn gốc nhưng có sửa đổi vài câu vài chữ.

Bản Minh Điền là một chêm dặm. Theo Phạm Đan Quế, bản này giống bản Anh Phương 22 câu, từ câu 374 đến câu 431, ngoài ra các câu khác hoàn toàn lạ lùng. Nhưng chính Phạm Đan Quế đã trích dẫn 50 câu đầu và 30 câu cuối của bản này thì thấy là hơn 120 câu giống chứ không phải chỉ 22 câu .

IV.TÍNH CHẤT CỦA CÁC BẢN

Nhìn chung, các bản có chung một vài điểm sau:

1. Tính bí mật:
Sấm Ký mang tính cách bí mật thuộc phạm vi quốc cấm, phải cất kín cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, chỉ bàn bạc với người thân mà thôi. Thái độ của nhân dân đối Sấm Ký khác với Lục Vân Tiên và truyện Kiều. Ấy cũng bởi ngày xưa các nho sĩ dùng Sấm ký để chống triều đình , chống Pháp, mà bọn tay sai cũng dùng sấm ký vu oan giá họa cho dân lành cho nên quan quân đã bắt bớ dân chúng, và người ta phải cất giấu các tài liệu này.

2. Tính thiếu chân thực:
Thói quen của ta là tự tiện sửa chữa, thêm bớt các bản chính cho nên truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã bị tam sao thất bản.. Nhiều người sau này sửa sấm ký hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyền lợi của phe nhóm họ.

3.Tính không thống nhất:
Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.

Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ.
Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.
Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : "Đào Tiền xử sĩ... nam thành quốc gia" nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây).
Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.

4. Tính mơ hồ:
Các bản có chỗ thần diệu nhưng cũng có chỗ mơ hồ, giống các bản của Sư Vải Bán Khoai, Huỳnh Giáo chủ và Thanh Sĩ. . . chỉ nói tí , sửu ,dần, mẹo. . . rất mơ hồ trong khi các bản Kim Cổ Kỳ Quan và Tứ Thánh thì rõ ràng hơn.

V. CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN

A. CÁC TỪ NGỮ

1. Quốc hiệu Việt Nam.
Bản Mai Lĩnh 1939 ở gần đoạn đầu có câu: Việt Nam khởi tổ gây nền,/ Lạc Long ra trị đương quyền một phương (câu 7-8). Đời Nguyễn nước ta có quốc hiệu Việt Nam. Sấm Trạng trình cách nhà Nguyễn mấy trăm năm sao lại ghi Việt Nam? Ai đó sửa lại hay ngày xưa cụ Trạng đã biết mấy trăm năm sau quốc hiệu là Việt Nam?

Tự điển Wikipedia giải thích về Quốc hiệu Việt Nam:

Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn.
Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).

Ông Nguyễn Phúc Giác Hải ở Hà Nội cho biết:

Khi nghiên cứu tập sấm này, đến bản AB 444 trong kho sách của Viện Hán Nôm, tôi bất đồ tìm thấy hai chữ Việt Nam ngay trong những dòng đầu tiên: Việt Nam khởi tổ xây nền. Theo quan niệm chính thống, hai chữ Việt Nam không được phép có mặt trước năm 1804, trong khi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sống cách ta 500 năm. Vấn đề đặt ra là có thật hai chữ Việt Nam đã được dùng cách đây hơn 500 năm để chỉ tên gọi đất nước? Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm còn những ai đã dùng danh xưng Việt Nam? Liệu có những bằng chứng khảo cổ về vấn đề này? Song lúc đó không có điều kiện tiếp xúc với bản gốc nên phải tạm gác lại. Đến 1980, khi được tiếp xúc với bản gốc, tôi đã dành hơn 20 năm nay để nghiên cứu. . . .

Sau khi đọc được bản gốc Sấm Trạng Trình, tôi đã khẳng định được hai tiếng Việt Nam đã được sử dụng từ thế kỷ 15. Song bản sấm này được truyền lại qua những bản chép tay, cũng không ai dám chắc tác giả là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi liền chuyển qua tra cứu thơ văn của cụ để so sánh. Thật bất ngờ, hai tiếng Việt Nam được cụ nhắc tới bốn lần: Trong tập thơ Sơn hà hái động thường vịnh (Vịnh về núi non sông biển) đã đề cập tới. Rõ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, cụ có viết: "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại, Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam"; còn trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến, "Tiền đồ vĩ đại quân tu ký / Thùy thị công danh trọng Việt Nam".

Dẫu sao, đó cũng mới chỉ là những văn bản chép tay. Để khẳng định thêm, tôi đã đi tìm trong bi ký (bài ký trên bia đá). Nhờ một số nhà khoa học Viện Hán Nôm, tôi đã tìm ra trong bia trùng tu chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh) năm 1664, phần bài Minh có câu Việt Nam cảnh giới, Kinh Bắc thừa tuyên. Sau đó là bia trùng tu chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương) năm 1558, Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ, bia chùa Cam Lộ (Hà Tây), năm 1590, Chân Việt Nam chi đệ nhất. Tuy nhiên, phát hiện quan trọng nhất là tấm bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670), có câu : Việt Nam hầu thiệt trấn bắc ải quan (Cửa ải phía Bắc Việt Nam). Đây là tấm bia có niên đại muộn hơn song nó có danh tính người soạn, hơn nữa đây là một mệnh quan triều đình, là phát ngôn chính thức.

Cho đến nay, sau tôi một số nhà nghiên cứu khác đã phát hiện tổng số 12 bia có hai tiếng Việt Nam. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17. Ngoài ra, còn một bản in khắc gỗ có danh xưng Việt Nam năm 1752. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu, và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng, sử dụng nhiều nhất và có ý thức nhất.
http://cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=3755&/Ai-dat-quoc-hieu-Viet-Nam-dau-tien.csv
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng từ thế kỷ 15, người Việt Nam đã dùng danh hiệu Việt Nam, Nam Việt, nước Nam, Đại Việt để chỉ nước ta. Và cũng có thể Trạng Trình ở thế kỷ 16 đã biết ở thế kỷ 19, nước ta chính thức mang quốc hiệu Việt Nam.

2. Thánh:

Các bản đều nói thánh nhân hay thánh vương tức là nói người làm vua như nói về Lê Hoàn "Lê gia xuất thánh minh"chứ không có nghĩa là bậc thánh như Khổng Tử, Mạnh tử. . . Vua thì có người hiền kẻ ác chứ không phải hoàn toàn là người nhân đức.

3. Hoàng giang, Bảo Giang. Thầy Nhân Thập:
Các bản đều có danh từ này: nhiều người giải thích khác nhau nhưng chưa rõ .


B. CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN

1. Các câu giống nhau:

(a).Hai bản Mai Lĩnh và Anh Phương :

-Hai bản thường khởi đầu bằng các câu sấm đời trước như của Vạn Hạnh, và các tác giả vô danh đời trước. Hòa đao mộc lạc.. ./ Thập bát tử thành.
- Tan tác Kiến kiều tan đất nước,/Xác xơ cổ thụ sạch an mây.
(AP 49; ML 381)
-Uy nghi dung mạo khác mình/ Thác cư một góc kim tinh phương đoài
(AP 125, ML 141)

(b). -Bản Anh Phương với bản Hương Sơn

Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
(HS. 1; AP:105)

(c). Mai Lĩnh và Hương Sơn

Thủy trung tàng bảo cái.... Đông Tây vô sự nam thành quốc gia.
(ML 446-487; HS, 26)
-Phá điền đầu khỉ cuối thu. . . Tái binh mọi giống thập thò liền sang.
(HS.16;ML 199)
-Thủy binh cờ xí vừng hồng.. .Bắc binh sang có việc gì chăng?... Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán...
(ML 83; HS 12)
-Bách tính khổ tai ương... Đông tây vô sự nam thành quốc gia.
(ML467-487; HS 26)
-Bắc phương chính khí sinh ra/ Có ông Bạch xỉ (sĩ) điều hòa hôm mai.
(ML 135; HS16 )
-Man mác một lĩnh Hoành Sơn/Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
( ML 195; HS 16)
-Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh/ Sông Bảo giang thiên định ai hay.
(ML 125, 257; HS 17 )
Bắc kinh mới thật đế kinh/ Giấu thân chưa dễ giấu danh đục nào.
(ML 238; HS 16)
Quần hùng binh kéo đầy khe/ Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời.. .
Thương những kẻ ăn rau, ăn giới.
(ML 103; HS 16 )
Canh tân ( niên) tàn phá/ Tuất hợi phục sinh
(ML 395; HS 18)
Ma vương sát đại quỷ/ Hoàng thiên tru ma vương/Kiền khôn phú tái khôn lường
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết/ Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân.
(ML 475; HS 26 )
-Phân phân đông (tùng ) bắc khởi.. Bất chiến tự nhiên thành
( ML 443; HS 26)
-Tộ trường nhị thập ngũ/ Vận khải ngũ diên trường
(ML 462; HS 26)
-Nực cười những lũ bàng quan/Cờ tàn lại muốn toan đường đấu xe
(AP 125; HS 26)


(d).Ba bản giống nhau:

-Bắc hữu kim thành tráng
Nam hữu ngọc bích thành
( AP,214; ML 426-427, HS, 25)
-Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. . .kiến thái bình.
(ML 398; HS 24, AP 171)
-Cửu cửu càn khôn dĩ định. . . Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
(AP151; ML 410; HS 21)
-Xem ý trời có lòng khải thánh/ Dốc sinh ra điểu đỉnh hộ mai.
(AP 131, ML 131, HS 16)
-Có thầy Nhân thập đi về/ Tả phù hữu trì cây cỏ thành binh.
AP 231, (ML 261; HS 17)
-Bảo giang thiên tử xuất/ Bất chiến tự nhiên thành
(AP 217; ML 415; HS 25 )
-Phú quý hồng trần mộng,
Bần cùng bạch phát sinh
(AP209, ML 430; HS 25)
-Thái nguyên cận Bắc đường xa
(AP 123; HS 14; HS 14)

2. Các câu được giải thích để tuyên truyền:

(1). Thấy đâu bò đái thất thanh/ Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng sai.(HS 14)
Một bản giải thích:
Ở Bắc Kạn có khe Bò Đái.
Một bản ghi:
Nghệ An Bò Đái thất thanh.
Một bản khác ghi:
Nam Đàn Bò Đái Thất thanh.
Trong quyển La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn có trích thơ Nguyễn Thiếp, bài Gặp người đánh cá ở sông PhùThạch, HXH nói đến câu ca dao
Đụn sơn phân giái/ Bò Đái thất thanh/ Đông Thành sinh thánh.
Huyện Đông Thành ở phủ Diễn châu, còn Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh ở huyện Nam Đàn, phủ Anh Đô. Chính trong bài thơ trên, Nguyễn Thiếp viết:
"Núi Liệt lở, Song Ngư nước cạn, /Sấm người xưa đánh lẫn dân ngu (tr.62)
Chữ Hán tên là Lao Tuyền, HXH nói tên tục là Bò Đái không biết có đúng không vì Lao Tuyền là Khe Bò mà thôi.

(2).Đầu can võ tướng ra binh/ Ắt là trăm họ thái bình âu ca (AP 197)
Thái Bạch giải thích Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra binh năm giáp thân (1944).

(3). Thánh nhân hương
Có người theo bản Hương Sơn giải thích

1.Thánh nhân hương
2- Thuỷ trung tàng bảo cái ( bài 19 và bài 26)

Trong giòng nước có lọng quý: có người giải thích là cái lá sen như cái lọng trong nước, và tán ra là làng Kim Liên, quê của Hồ Chí Minh. Nếu đọc xuống một đoạn thì sẽ thấy là không đúng. Quê thánh nhân không ở Kim Liên, Nghệ An mà là ở Thái Nguyên:


5- Chỗ thánh nhân sinh ra
6- Cận bảo giang thuỷ
7- Thuỷ nhiễu chu toàn
8- Thánh nhân danh
9- Mộc hạ liên đinh khẩu
. . . . . . . . . .
18- Tự trung dị hương, tam nhật bất tán
19- Thầy tăng (36) tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị
20- Toại chưởng dưỡng chi
21- Thánh mẫu diện xú như lam
22- Niên tam thập lục sinh thánh nhân (tr.63)
23- Hoài nhâm chi nhật
24- Tam nhật thực nhất lý ngư
25- Cư ư giang thượng
26- Quần ngư tranh dược (37)
27- Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi
28- Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ.
29.Tự nhi sinh thánh nhân yên.
30- Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện
31- Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn
32- Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên
Nhưng mấy câu dưới của bản Sấm Ký thì nói vị này quê ở Thái Nguyên, sinh trên sông ở trong thuyền ( cá hay vào thuyền cho thân mẫu của thánh ăn). Như vậy ông thánh này xuất nhân nhà thuyền chài và không phải là Hồ Chí Minh. Thân mẫu của thánh rất xấu, thường kiếm ăn ở chùa Bạch Xỉ, vậy là thân thế hèn kém.
Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị: Đoạn này giải thích thầy tăng là ông thầy tu trong Bạch Xỉ tự nuôi thánh nhân lớn lên. Như vậy là mẹ con nương nhờ Bạch Xỉ tự, lai lịch hơi giống Lý Công Uẩn!
Bạch xỉ và Bạch Xỉ tự là gì? Phải chăng là người Âu Mỹ trắng răng, và Bạch Xỉ tự là nhà thờ Thiên Chúa giáo? Điều này rất kỳ bí, chưa hiểu rõ được.
Họ cũng tán nhiều câu để gán vào Hồ Chí Minh như giải thích câu Bò Đái, cha mẹ đà cách trở. Ông Hồ không mồ côi, cha mẹ song toàn không hề cách trở! Nếu nói việc ông Nguyễn Sinh Sắc vào miền Trung làm quan mà bảo là cha mẹ trắc trở thì đa số người trên thế giới đều chịu cảnh đó!


VI. KẾT LUẬN

Sau khi nghiền ngẫm khoảng 20 bản, tôi thấy quanh đi quẩn lại chỉ có ba phiên bản chính, được nhiều người sử dụng :
-Mai Lĩnh
-Anh Phương
-Hương Sơn.
Trong ba bản, theo thiển kiến, bản Mai Lĩnh là đáng tin cậy nhất. Hai bản kia có lẽ chỉ là ghi chép những câu sấm truyền trong dân gian. Đây cũng chỉ là giả thuyết chờ sau này ai đó nghiên cứu thêm nhiều bản nôm thì rõ hơn.

1. Mai Lĩnh:
(1).Bài thứ nhất cho biết sau này có " thầy Nhân Thập" về cứu nước.
(2).Bài thứ hai cho biết sau thời Lê Duẩn (kể từ nhân duẫn mà đi) nước ta rất khổ. Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái bình như thời đại hoàng kim.

2.Hương Sơn:
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 2:Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái bình như thời hoàng kim.

3.Anh Phương:
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 1: sau này có " thầy Nhân Thập" về cứu nước.


Friday, October 1, 2010

PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ





SẤM KÝ TRẠNG TRÌNHPHỤ LỤC
SẤM TRẠNG BÙNG

Lời nói đầu

Đây là bản nôm Phùng Thượng thư ký tìm thấy trong thư viện cụ Nghè Bân, người Hữu Bằng Sơn Tây. Bản chép tay này đã tồn tại hơn trăm năm, và đã 20 năm nằm trong tủ sách của tôi nay đem ra trình cùng bạn đọc. Bản nôm này có thể do cụ nghè sao chép ở các sách của các bằng hữu hay tiền bối của cụ. Cũng có thể bản này có nguồn gốc từ bản Thiên Nam Ngữ Lục ngoại ký có ghi chép sấm ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng thượng thư, bản nôm ký hiệu AB192 trong thư viện.
Điều này cho thấy nhiều người viết Sấm ký chứ không phải riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chúng tôi xin trình làng, sau sẽ phiên âm và chú thích.
Canada ngày 14 tháng 10 năm 2010.
Nguyễn Thiên Thụ

I. TIỂU SỬ TÁC GIẢ

Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613) sinh năm 1528 tại Phùng thôn (tục gọi là làng Bùng), xã Phùng Xá - huyện Thạch Thất - tỉnh Hà Tây. Thân phụ của Phùng Khắc Khoan là Phùng Quý Công từng làm quan dưới triều Lê Sơ, là người tinh thông thuật phong thủy,. Ngay từ thủa nhỏ, ông đã tỏ ra thông minh, có khí chất. Lúc nhỏ ông ở nhà được cha dậy dỗ , đến năm 16 tuổi ông sang Hải Dương theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1552, ông đi thi ở đất Mạc chỉ đỗ Tam trường. Nhưng ông không làm quan cho nhà Mạc. Năm 25 tuổi, ông vào Thanh Hoá, giúp nhà Lê thực hiện công cuộc Trung hưng. Năm 1557, ông thi Hương ở triều Lê và đỗ đầu. Phùng Khắc Khoan được Trịnh Kiểm giữ lại và được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê - Trịnh. Sau đó, vì trái ý vua, ông bị đày ra Thành Nam, nay là xã Bồng Khê - huyện Con Cuông - Nghệ An. Sau đó ông được triệu về cho phục chức. Năm Canh Thìn 1580, ông tham dự khoa thi Hội và đỗ thứ hai. đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, tức là Hoàng giáp vào năm Quang Hưng thứ 3 (1580). Năm 1597, ông được cử làm chánh sứ dẫn đầu một sứ bộ sang triều Minh và cuộc đi sứ của ông đã thành công lớn. Ông được phong nhiều chức vụ quan trọng như Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tán trị Thừa chính sứ ty, Thừa chính các xứ Thanh Hóa, Tả thị lang bộ Công, Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Hộ.khi đi sứ Trung Quốc, ứng đối xuất sắc, nên được vua nhà Minh đặc cách phong làm Trạng nguyên.

Mặc dù ông chỉ đỗ Hoàng giáp nhưng người đời quen gọi ông là trạng Bùng.
Sau đó, ông xin vễ trí sĩ tại quê nhà,.Ông mất ngày 24/9/1613, thọ 86 tuổi. Ông là một công thần có nhiều thành tích với nhà Lê trong công cuộc chống nhà Mạc Năm 1613, ông qua đời, thọ 86 tuổi. Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

TÁC PHẨM
+ Tập thơ Vạn thọ - viết trong thời gian ông đi sứ nhà Minh được hoàng đế nhà Minh là Minh Thần Tông cho khắc in để ban hành khắp cả Trung Quốc. Sứ thần Cao Ly là Lý Toái Quang (이수광/Yi Su-gwang) là người viết tựa cho tập thơ.
+Ngôn chí thi tập
+Lâm tuyền vãn
+Mai Lĩnh sứ hoa thi tập.

II. BẢN NÔM PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ

tr.1

tr.2


tr.3


tr.4

tr.5

tr.6


tr.7


tr.8

tr.9


tr.10


tr.11

tr.12
tr.13

tr.14


tr.15

tr.16



PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ


Phiên âm: Trương Quang Gia
Chú giải: Nguyễn Thiên Thụ

Thuận Đức niên hiệu (1)

1.Vận trung nguyên lấy năm canh tý (2)
Tiết tiểu hàn vừa thuở đông thiên.
(Thập nhị nguyệt thượng tuần)
Hợi cung sửa việc cầm quyền,
Nhưng sửa một trận mới yên bốn bề.
5. Lộ lộ bóng thỏ nghiêng kề,
Chiêng vàng ló thấy vừa khi mặt rồng.
Tản lửa giăng che thái ất
Thuở tay xe nhật phù lên,
Lậu lậu ngọ chánh đương thiên,
10. Rạng soi thế giới sơn xuyên xa gần.
Vẹn nhà trạch ấm đượm nhuần,
Nghiêng thùng rượu cúc đòi tuần mời khuyên.
Hợp bạn hiền những người tri kỷ,
Mở đồ xem luận lý xưa nay,
15. Những câu châu báu là hay,
Bằng dao chẻ nước bấy nay khôn tìm.
Vàng ấy cao giá dư ngàn,
Càng nhìn, càng thắm càng in càng màu.
Nếm mùi đạo gẫm lâu mới biết,
20.Tạc công lòng mở tiết mở không.
Ai hòa học được thần kinh
Ắt là gặp lối thánh minh tuần này.
Thánh hiền chén chuốc rượu say,
Nước vui bàng bạc vỗ tay reo cười.
25. Lại xem thấy sự đời thượng cổ,
Lạc Long quân là tổ nước ta,
Sửa sang bốn bể gần xa,
Làm vua Nam Việt khắp hòa đâu đâu.
Tuổi già hưởng được sang giàu,
Ngàn năm sức khoẻ trị lâu, ngôi dài.
Giản biên nói chưng đời ngoài
Kỷ luân chính thống mới kề từ Đinh.
Tiên hoàng tuổi còn phù sinh
Cờ lau tập trận dụng binh giữa đồng.
35.Ứng điềm từ thuở sang sông,
Ngang sông cao ngự hoàng long thụy lành.
Thiên thư đã định rành rành,
Mộc sơn đồng chữ tập tành nên câu:

"Mộc căn đạp đạp,(3)
Mộc biểu thanh thanh,
Hòa đao mộc (4) lạc
Thập bát tử (5)thành
Đông A (6) nhập địa
Dị mộc (7) tái sinh,
Chấn cung hiện nhật (8)
Đoài cung ẩn tinh (9)
Lục thất(10) nguyệt gian
Thiên hạ thái bình"


Một câu là một hữu tình
Đời đời nước có điềm lành đế vương.
Ra tay vỗ trị bốn phương
Đời đời nước có đế vương ở trời.
Hòa đao mộc lạc Lê dân
Thập bát từ thành họ Lý đổi thay.
Đông A nhập địa Trần danh,
Họ Trần từ đế đời tay Chiêu hoàng
Trên ngôi vẹn nghiệp Đào Đường,
Giúp tay rủ áo âu vàng đặt an.
Man di củng phục bể thuyền non cao.
Sự lạ thay chấn cung hiện nhật,
Bên đông phương giữa đất Cổ Trai
Thái tử bửu vị lên ngôi,
Thần kinh thoắt lại năm đời thánh minh.

Lại nói " Đoài cung ẩn tinh
Tây đô Trịnh thị đặc danh tướng tài.
Tướng tinh về ẩn phương đoài.
Tây đô chốn ấy tượng trời định vi
Quỷ ma chật vật đổi dời.
Bây giờ thiên hạ xem ngày bằng đêm.
Ngồi thấy những sương nghiêm tuyết lạnh
Loài cừ khôi cậy mạnh hung hăng.
Đua nhau làm sự bất bằng
Giết người lấy của nhung nhăng đã buồn.
Khoe khaong sức mạnh tài khôn,
Nào hay nhân nghĩa nào còn ái ân.
Chí toan mưu độc hại nhân.
Trên đầu chẳng hổ trời thần phủ che.
Những xưng xe phù Lê diệt Mạc
Cái oan gia người khác giết nhau.
Nào ai đã nhịn ai đâu,
Thủy chiến, bộ chiến mặc dầu sắm sanh.
Đêm ngày tập trận dụng binh,
Làm cho thiên hạ thương sanh hối lầm.
Chưa từng thấy cổ kim sự lạ,
Một đinh man giá họa muôn dân,
Cưu toan lòng độc dữ muôn phân.
Đua nhau quái độc muôn dân từ này.
Trăm họ ai chẳng chau mày,
Anh hùng ai chẳng cau mày lăng xăng.


Thư đường nhân thuở ngoài hiên,
Chép làm một tập để làm mai ngay.
Tân vị thoáng ấy năm nay.







___
CHÚ
(1). Thuận Đức: Mạc Kính Hoàn hay Mạc Kính Vũ (1638-1677) là con của Mạc Kính Khoan lên ngôi đặt niên hiệu Thuận Đức , năm mậu dần ( 1638) - đinh tị ( 1677).
(2).Canh tý (1540). Mạc Đăng Doanh mất năm canh tý (1540), con là Mạc Phúc Hải lên ngôi. Năm này Nguyễn Kim khởi binh đánh Nghệ An, mở đầu cuộc trung hưng nhà Lê.
(3).Đồng ca truyền từ đời Lê Đại Hành ( 980-1065) : " Thụ căn.. . thái bình". Câu đầu có sách phiên âm là " yểu yểu". Phùng Khắc Khoan đã giải thich ở dưới.
(4). Hòa đao mộc là chữ Lê . Lê Đại Hành (941 – 1005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Lê Long Đỉnh lên ngôi từ 1005 đến kỷ dậu ( 1009), hai triều tổng cộng 29 năm.
(5). Thập bát tử là nhà Lý . Nhà Lý làm vua 9 đời. Lý thái tổ (1010- 1028) mở đầu đến đời Lý Chiêu hoàng (1225) thì truyền ngôi cho Trần Cảnh, tổng cộng 216 năm.
(6). Đông A : nhà Trần. Nhà Trần làm vua 12 đời, khởi đầu từ Trần Thái Tông (1225-1258) đến Trần Thiếu Đế (1398-1400)/ được 175 năm.
(7). Dị mộc: nhà hậu Lê. Lê thái tổ (1428- 1433) dựng nhà Lê đến Cung Hoàng gồm 10 đời vua dài 100 năm.
(8).Chấn cung hiện nhật : chỉ nhà Mạc trong chữ Mạc có chữ nhật. Chấn là phương Đông. Quê Mạc Đăng Dung ở Hải Dương xưa gọi là tỉnh Đông.
(9). Đoài cung: chỉ họ Trịnh. Họ Trịnh quê ở Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thanh Hóa là Tây đô (Thăng Long là Đông đô)
(10).Lục thất : nhà Nguyễn (lục thất dùng thay 陸, chữ lục gần giống chữ Nguyễn)





Thursday, September 30, 2010

BẢN NÔM TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ * SƠN TRUNG 2010





TRÌNH QUỐC CÔNG KÝtủ sách cụ Nghè Bân, Sơn Tây


LỜI NÓI ĐẦU

Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân ( 1868-?). Cụ nghè Nguyễn Văn Bân , sinh năm mậu thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa đinh dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa tân sửu, năm Thành Thái 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc kỳ thượng nghị viện . Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, là tế tử của cụ nghè.

Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng, sang định cư tai Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng tôi một số sách cổ, trong có bản Trình Quốc công ký Phùng Thượng thư ký. Tôi giữ từ đó đến nay, chỉ nhìn qua rồi cất kín vì lúc bấy giờ tôi đang tập trung tư tưởng và thời giờ viết bộ Văn Học Sử Việt Nam. Vả lại lúc bấy giờ việc nước tang thương, ai cũng lo việc y thực và tìm tự do.
Nay có bạn đọc hỏi về Sấm Ký, tôi bèn đem tất cả Sấm Ký Quốc ngữ mà tôi đã sưu tập và bản Nôm này trình làng. Như vậy bản nôm chép tay đã có khoảng hơn một trăm năm, mà tôi cất giữ cũng đã 25 năm, nay mới ra mắt độc giả.

Hôm nay xem kỹ, và sau khi so sánh các bản Quốc ngữ, tôi xin thưa với các độc giả vài điều:

1. Sấm Trạng Trình là có thực. Bản này có gốc tích rõ ràng từ một bậc danh gia ở Sơn Tây, đồng hương với Trạng Bùng, mà trạng Bùng lại là đệ tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, hơn 20 bản nôm trong các thư viện cũng là một thực thể mạnh, không thua gì Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, trong đó có những dị bản, nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Trình Quốc Công ký.

2.Bản này giống phần thứ hai của Mai Lĩnh. Tôi chưa xem bản nôm AB 444 của Viện Hán Nôm Hà Nội, song có thể nghĩ rằng hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ của Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu it nhất là có một chữ bị sửa . Tôi chưa xem bản AB444 của Viện Hán Nôm nên chưa biết thế nào. Tuy nhiên phần cuối bản nôm này ( từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.
Tôi chỉ phiên âm, còn phần chú thích tôi đã chú thích trong bản Mai Lĩnh, nay chỉ chú một đôi dòng cần thiết mà thôi. Xin tha thứ những sai lầm trong bản này.
Ottawa ngày 6-10-2010
Nguyễn Thiên Thụ



BẢN NÔM TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ



trang 1


trang 2


tr.3


tr.4



NGUYỄN THIÊN THỤ
phiên âm



1.Vừa năm canh tý (1) xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa long câu (2) nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất (3) gian
5.Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chưng (4) giữ nước dân an thái bình

Kể từ Lạc Long đế kinh,
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.
Nhân vì biết được tơ hào
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.
Luận chung một tập kim thì (5)
Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng doi (6) cho cần
15. Già nay cũng đấng hiên ngang
Biết chưng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân duẫn ( 7) mà đi
Sau thì chưa đến biết thì nói ra.
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công
Thử cho tay thước ( 8) ra dùng
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao

Trên trời chỉn chín tầng cao
Tai nghe bằng một tơ hào (9) biết hay
25. Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời

Dẫu hay tấn chước (10) ngàn lời,
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.
Chẳng sinh phải kiếp người ta,
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.
Nói ra thì lộ sự đời,(11)

Che nghe (12) cho phải lụy này,
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
35. Chờ cho nhân duẫn về sau
Ðến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn
Trời sinh ra những kẻ gian,
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.
Quân nào thần ấy làm vày (13),
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.
Đua nhau bạo ngược làm càn,
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay
Anh hùng gẫm được thời hay,
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.
45. Nam nhi có chí anh hùng,
Muốn làm tướng súy lập công chưng đời.
Thời xem tuần vận điềm trời,
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.
Đi tìm cho đến thánh công,
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.
Trong ngoài cương kỷ cho bền,
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.
Chờ khi chuyển đất động trời,
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.
55. Còn bận (14) thì náu chưa xong,
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.
Ðời này những quỉ cùng ma
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.
Trời cao đất rộng mông minh,
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
65.Xem chưng tuần vận cho tường,
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.
Vua ngự thạch bàn xa thay,
Nhân (15) ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Chim kêu vượn hót vang lừng,
70. Ðường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ
Sơn lâm bát ngát đổ (16) nhờ khôn thay!
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.
Khảm cung thời tiết mở vần,
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.
Anh hùng ai có chí tài,
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.
Tìm đi đến Bàn thạch khê,
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.
Nhìn đi nhìn lại cho tường,
Do nay phỏng có sinh vương đâu là.
85. Chẳng tin thì đến bản gia,
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.
Bốn bề phong cảnh cực thanh,
Tả long triều lại uốn vành vũ khai.
Hữu thời cửu khúc giang nay,
90. Minh Ðường thất diệu ra bày tay coi
Trông xa thấy một đầu voi
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn .
Ứng điềm thiên tử về chầu,
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.
95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,(17)
Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu
Ðến tuần hưng vượng về sau,
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm
Khuyên người Ðông Bắc Tây Nam
100. Muốn làm tướng súy thì xem sấm này
Anh hùng lượng được thời hay
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.
Ai nên bia tạc biển son,
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.
105.Nay nhờ truyền bảo sau xưa,
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường
Tìm đi cho đến khảm phương
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.
Chính trung diện mạo uy nghi,
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.
Nhìn xem cho biết tỏ tường,
Để hòa (mà) giúp rập đế vương tuần này.
Quân thần hội họp rồng mây,
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.
115. Cõi tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Phò vua ra đến Tràng An,
220. Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
225.Thấy sự thời để chép vào,
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.
Ai mà độ lượng trí tài,
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.
Phò vua vực trị trợ đời,
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.
Vũ thời phong đại tướng quân,
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.
Trông ân đức rộng bằng trời,
Cả dung cho khắp thỏa người tôi con.
235. Chớ nề bạch ốc chu môn,
Nam nhi có chí khỏe khôn đều dùng,
Quân minh lại gặp thần trung,
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.
Trảo nha những đứng trí tài,
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.
Ai ai là chẳng nam nhi,
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.
Trông ơn đức rộng cao minh,
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.
245. Quân thần tướng tá giúp đời,
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,
Trợ phù nhà nước khoẻ bền.
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.
Trời sinh lão tướng giúp đời,
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.
Khác nào thuở trước nhà Đường,
Quân minh lại gặp thần lương mới bền.
Đời xưa những đấng khá khen,
Đời nay những đấng tôi hiền ai so
255.Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.
Mong ơn trên trị chưng đời,
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.
Sống thời ăn bổng lộc vua,
260.Thác thời ban cấp cho con thơ rày
Trận tiền hết sức, ra tay,
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.
Hoặc là tử trận đương cô,
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.
265. Quân thời cấp ruộng điền tô,
Làm cho con cháu ơn vua đời đời.
Để cho nức lòng con trai.
Đến khi có giặc cho trai liều mình.
Thấy tặc nó hội phụng kinh
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.
Sống thì chức trọng quyền cao,
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.
Lập nên giềng mối kỷ cương.
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hòa,
275. Đâu đâu xướng thái bình ca,
Thiên thuận địa hòa, chủ quý thần vinh.
Tảo an thiên hạ thái bình,
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.
Khuyên người Nam Việt trai hiền,
Ai xem cho biết để mà làm công.




____

CHÚ THÍCH

(1). Các bản ghi giáp tí, nhâm tí nhưng bản này ghi canh tí. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh 1491 và mất năm 1585. Canh tí là năm 1540, nhâm tí là 1552; giáp tí là 1564. Năm canh tí là lúc ông 50 tuổi.
(2). Câu: câu là câu lơn, bao lơn, hành lang.
(3).Nguyên bản lục thất 六 七 ( lục thất nguyệt gian, lục thất niên gian) có lẽ cổ nhân dùng để chỉ lục thất 陸 室 nhà Nguyễn vì trong chữ lục có chũ Nguyễn 阮.
(4). Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
(5).Kim thời: thời nay.
(6). Doi: noi theo, theo dõi.
(7).Nhân duẫn : duẫn, doãn , chỉ Lê Duẩn.
( 8). tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ khí của tuần phu ngày xưa.
(9). ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.
(10). Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.
(11).Đoạn này bị sót
(12).Che nghe : chẳng nghe.
(13).làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
(14). Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.
(15). Bản Mai Lĩnh ghi là Đại ngàn.
(16). Đỗ: ở đỗ, ở nhờ.
(17).Tuổi quý .




Align Right Justify Full
Numbered List Bulleted List Blockquote


Check Spelling

Add Video
Remove Formatting from selection

BẢN VI * ANH PHƯƠNG 1960?

Check Spelling

Add Video
Remove Formatting from selection
SẤM TRẠNG TRìNH
Hoàng Xuân sưu tập
Anh Phương Saigon, 1960?
tr.29-58

SẤM TRẠNG TRÌNH
THỜI TẬP, của VIÊN LINH
SAIGON, 1973-1975.


CẢM ĐỀ
1.Thanh nhàn vô sự là tiên,
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi.
Cơ tạo hóa,
Phép đổi dời,
Ðầu non mây khói tỏa,
Mặt nước cánh buồm trôi.
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.
Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.
Dở hay nên tự lòng người cả,
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
14. Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KÝ
1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Tự Ðinh, Lê, Lý, Trần thưở trước.
Ðã bao lần ngôi nước đổi thay,
Núi sông thiên định đặt bày,
Ðồ thư một quyển xem nay mới rành.


Hòa đao mộc lạc, (1)
Thập bát tử thành,(2)
Ðông A nhật xuất, (3)
10. Dị mộc tái sinh.(4)
Chấn cung xuất nhật,(5)
Ðoài cung vẩn tinh.(6)
Phụ nguyên chì thống, (7)
Ðế phế vi đinh. (8)
15.Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.(9).

Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
Hòa đao mộc hồi dương sống lại,
20.Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương, (10)
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
Lê tồn Trịnh tại,
Trịnh bại Lê vong.
25.Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.(11)
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Chim bằng cất cánh về đâu ?
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công (12)
Bao giờ trúc mọc qua sông, (13)
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Ðoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
35.Ðầu cha lộn xuống thân con,(14)
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, (15)
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chinh chích u mê,
40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.(16)
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.
Gia đình một ở ba đi dần dần.
45.Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gởi nơi đâu chuyến này.
Kìa kìa gió thổi lá rung cây, (17)
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.
Tan tác Kiến kiều An đất nước.
50.Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.
Lâm giang nổi sóng mù Thao cát,
Hưng địa tràn dâng Hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái ?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.

55.Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.(18)
Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. (19)
Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
60.Rắn mới hai đầu khó chịu thay.

Ngựa đã gác yên không người cỡi,
Dê khôn ăn lộc ngoảnh về Tây.
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay,
65.Chó nọ vẩy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hào biết đấy mới ngoan,
Chữ rằng lục thất nguyệt gian,
70.Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ra tay điều đỉnh hộ mai,
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
75.Phá điền than đến đàn dê,
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng,
Dê đi dê lại tuồn luồn.
Ðàn đi nó cũng một môn phù trì.
Thương những kẻ nam nhi chí cả,
80.Chớ vội sang tất tả chạy rong,
Học cho biết chữ cát hung,
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.
Hể trời sinh xuống phải thì,
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
85.Kìa những kẻ vội lòng phú quí,
Xem trong mình một tí đều không.
Ví dù có gặp ngư ông,
Lưới giăng đâu dể nên công mà hòng.
Khuyên những đấng thời trung quân tử,
90.Lòng trung nghi nên giữ cho minh.
Âm dương cơ ngẩu hộ sinh,
Thái nhâm, thái ất mình cho hay..
Chớ vật vờ quen loài ong kiến,
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

95." Ô hô thế sự tự bình bồng,(20)
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "

Ngõ may gặp hội mây rồng,
Công danh rạng rở chép trong vân đài
105.Nước Nam thường có thánh tài,
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
So mấy lề để tàng kim quỹ,
Kể sau này ngu bỉ được coi,
Ðôi phen đất lở cát bồi,
110.Ðó đây ong kiến dậy trời quỷ ma.
Ba con đổi lấy một cha,
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,
Ðợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.

115.Hoành sơn nhất đái,(21)
Vạn đại dung thân.
Ðến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.

Thiên sinh hữu nhất anh hùng,(22)
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa,
Ai mà tìm thấy mới là thần minh.
125.Uy nghi dung mạo khác hình,
Thác cư một góc kim tinh phương Ðoài.
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi,
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.
Binh thư mấy quyển kinh luân,
130.Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu.
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh,
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai.
Song thiên nhật nguyệt sáng soi,
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường,
135.Thông minh kim cổ khác thường,
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài.
Ðấng hiên ngang nào ai biết trước,
Tài thao lược yêm bác vũ văn.
Ai còn khoe trí khoe năng,
140.Cấm kia bắt nọ hung hăng với người,
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,(23).
Chốc lại mồng gá vạ cho dân.
Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
145.Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức này quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thưở hung hoang,
150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,(24)
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
155.Nực cười những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe.
Lại còn áo mũ xum xoe,
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Ghê thay thau lẫn với vàng,
160.Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.
Thành ra tuyết tán mây tan,
Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
Can qua việc nước tơi bời,
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.
165.Oai phong khấp quỷ kinh thần,
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.
Rừng xanh núi đỏ bao la,
Ðông tàn Tây bại sang gà mới yên.
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,
170.Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,(25)
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
175.Sự đời tính đã phân minh,
Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau :
Ðầu thu gà gáy xôn xao,
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông,
180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.(26)
Lợn kêu tình thế lâm nguy.
Quỷ dương chết giữa đường đi trên trời..
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi,
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra.
185.Hùm gầm khắp nẻo gần xa.
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời,
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,
190.Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Chín con rồng lộn khắp nơi,
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.
Lời truyền để lại bấy nhiêu,
Phương Ðoài giặc đã đến chiều bại vong.
195.Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,
Ðến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
Ðầu can võ tướng ra binh,
Ắt là trăm họ thái bình âu ca.
Thần Kinh Thái Ất suy ra,
200.Ðể giành con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngày thường xem thấy quyển vàng,
Của thiên bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thưở sấm trời vô giá thập phân.

205.Kể từ đời Lạc Long Quân,
Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian. (27)
Mỗi đời có một tội ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình.
Phú quí hồng trần mộng,
210.Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả giục nhân canh.

Bắc hữu Kim thành tráng.(28)
Nam hữu Ngọc bích thành,
215.Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh,
Bảo giang thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Rồi đây mới biết thánh minh,
220.Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Nhị hà một dải quanh co,
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào.
Khắp hòa thiên hạ nao nao.
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
225.Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,
Ðám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu,
Bây giờ phép ấy để lâu không hào..

Cũng có kẻ non trèo biển lội, (29)
230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh.
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.

235.Phùng thời nay hội thái lai,
Can qua chiến trận để người thưởng công.
Trẻ già được biết sự lòng,
Ghi làm một bản để hòng dở xem.
Ðời này những thánh cùng tiên,
240.Sinh những người hiền trị nước an dân.
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại,
Chó còn nằm đầu khải cuối thu.
Khuyên ai sớm biết khuông phù,
Giúp cho thiên hạ Ðường, Ngu ngõ hầu
245.Cơ tạo hóa phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào,
248.Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
____
SƠN TRUNG
sưu tập, hiệu đính và chú thích,
Bài này được truyền tụng nhiều, là bản A của trường Viễn Đông Bác cổ nay là Thư Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội. Tôi chưa xem bản chữ nôm cho nên không rõ bản này có từ đời nào và so với bản quốc ngữ có khác nhau không. Và bản quốc có do ai bịa ra đọan nào, chữ nào không.
Tại Sài gòn có bản in của Hoàng Xuân sưu tập, Anh Phương xuất bản trong khoảng 1960, và Thời Tập. Không biết trước đó có bản quốc ngữ nào không?


(1). Đao: chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
(2). Thập bát tử: họ Lý
nối ngôi(3). Đông A là nhà Trần 陳. Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
(4). Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.
(5).Chấn cung xuất nhật: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
(6).Đoài cung vẩn tinh: tinh là sao (tinh có ba chữ nhật) chỉ họ Trịnh vì chữ Trịnh có chữ nhật.
(7).Phụ nguyên chì thống: Nhà Nguyễn lên ngôi.
(8).Ðế phế vi đinh: Năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị trước áp lực của cộng sản.
(9).Thập niên dư chiến/Thiên hạ cửu bình: Pháp việt chiến tranh từ 1945 đến 1954 thì hiệp định Geneve chấm dứt chiến tranh.

Từ câu 1 đến 16 là nói tổng quát, sau đó là nói rõ từng thời kỳ. Bắt đầu nói về nhà hậu Lê của Lê Lợi. Đời Lê mạt, chiến tranh liên miên.
(10). Biện lại vi vương: Nguyễn Nhạc làm biện lại: Nhà Tậy Sơn nổi lên, chiến tranh liên miên.
(11). Lê tồn Trịnh tại,
Trịnh bại Lê vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

Trịnh Khải bị Tây Sơn giết, họ Trịnh mất thì nhà Lê cũng mất theo. Khi Trịnh Khải xuất bôn, qua làng Vĩnh Lại, kêu gọi cần vương, những ai giúp công giúp của đều được ban quận công cho nên cả làng Vĩnh Lại được phong quận công.
Cũng có thuyết nói rằng nguyên làng Vĩnh Lại là nơi quê nhà của Trạng Trình. Dân chúng ở Vĩnh Lại, thấy thiên hạ đồn đại ông là người tiên tri biết trước được mọi việc sẽ xẩy ra, liền yêu cầu ông đoán cho biết tương lai của dân chúng ở Vĩnh Lại. Trạng Trình chỉ nói xa nói gần mà không chịu nói rõ, viện cớ là: “Thiên cơ bất khả lậu” . Ông liền cho đắp một con ngựa đá đặt ở bên bờ sông làng Vĩnh Lại . Lâu ngày đất cát bồi thành, giống in như con ngựa đá sang sông thật. Trạng Trình lại cho khắc vào mình ngựa hai câu sấm trên . Dân chúng ở Vĩnh Lại đọc được hai câu sấm truyền và thấy ngựa đá sang bờ sông Vĩnh Lại rất vui mừng, cho rằng hồng phúc đã đến cho dân làng . Và ngày ngày mong đợi sự ứng nghiệm .

Về sau, khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn, trốn qua làng Vĩnh Lại, dân chúng đều một lòng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn. Vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình, liền phong tước Hầu cho người cầm đầu nhóm dân làng . Tin ấy truyền ra, dân chúng tranh nhau xin nhà vua phong tước Hầu cho mình . Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc có hại cho mình, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng . Vua Lê Chiêu Thống trú ngụ tại làng Vĩnh Lại một thời gian, nhận thấy không thể nhờ dân làng mà khôi phục nghiệp cả được, liền bỏ trốn sang Tầu với các thuộc hạ để cầu viện binh với vua nhà Thanh . Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm nghe tin vua Lê trốn tại làng Vĩnh Lại đến bắt, nhưng chậm mất . Biết được dân làng Vĩnh Lại chống Tây Sơn nên được tước Hầu, liền hạ lịnh cho binh sĩ giết hại dân làng rất nhiều . Dân làng Vĩnh Lại vì khát vọng công danh nên thiệt mạng oan uổng.

(12).Chim bằng cất cánh về đâu ?
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công .
Nói việc Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết.
(13). Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam . Khi đến Thăng Long , Sĩ Nghị cho quân bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng Hà .

(14). Ðầu cha lộn xuống thân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Nói về nhà Tây Sơn vua Quang Trung , chữ Quang có chữ tiểu trên đầu光 nhưng đến con là Cảnh Thịnh, chữ Cảnh景 có ba nét của chữ tiểu nằm dưới. Nhà Tây Sơn tồn tại trong 14 năm kể từ 1788 là năm Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đến năm 1802 nhà Tây Sơn bị diệt vong, Nguyễn Ánh lên ngôi. Nếu kể từ năm tân mão (1771), Tây Sơn khởi nghĩa cho đến 1802 thì 31 năm.


(15).Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Nguyễn Ánh tin vào Pháp ( người Tây dương, dương là bể, dương cũng đồng âm với dương là dê , dê chỉ người Pháp) cho nên sau mất nước vào tay Pháp.

(16). Dục lòng chinh chích u mê,
40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.
Gia đình một ở ba đi dần dần.

Nói vua Tự Đức 嗣德 ( thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm là chữ chỉ vua Tự Đức) để cho Pháp
( bạch quỷ) xâm chiếm Việt Nam. Sự thật thì ta yếu địch mạnh phải thua mặc dù vua quan đã hết sức chiến đấu. Gia đình một ở ba đi dần dần là nói việc sau khi vua Tự Đức băng, ba vị vua nói tiếp bị phế và bị giết là Dực Đức, Hiệp Hòa, và Kiến Phúc . Vua Hàm Nghi lên ngôi sau chống Pháp bị đày.
(17). Câu 47-54
Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.
. . . . . . . . . .
Một ngựa một yên ai sùng bái ?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.
Nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa và VNQĐ bị tàn sát.


(18).Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua..
Cộng sản nổi dậy năm 1930 tại Nghệ An ( Sô Viết Nghệ Tĩnh)
(19).Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
Đầu năm 1934, âm lịch có hai tháng bảy thành ra có 13 tháng, Toàn quyền Pasquier ( Bát Kê :Tám Gà) bị cháy máy bay mà chết.

(20)." Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

Bài thơ này quả là tiên tri, những việc trong này chỉ xảy ra sau 1960.
Bao giờ đường sắt được thông thương?
Sau 1945, cộng sản phá cầu đường, thiết lộ bị phá hủy. Sau 1954, miền Nam khôi phục xe lửa trong Nam. Mãi đến sau 1975, đường săt mới thông suốt.
Lúc này thì Hồ Chí Minh (1890 – 1969) đã chết mà Mao Trạch Đông (1893 – 1976 ) cũng không còn (Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch).Lúc này cũng xảy ra cuộc hải chiến ở Trường Sa, Hoàng Sa giữa quân Trung Cộng và VNCH (Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng). Hoặc sắp tới có hải chiến tại biển Đông? Và Mỹ Trung Cộng sẽ đánh nhau ( Ưng lai sư tử thượng: Ưng là Mỹ, Sư tử: Trung Quốc), lúc đó Việt Nam và thế giới mới hòa bình.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

21.Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân.
Ðến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Hoành sơn nhất đái nói về họ Nguyễn xưng vương xưng đế nhưng đến thời cộng sản ( vô quân) thì họ Nguyễn cáo chung. Thậy vậy, năm ất dậu (1945), vua Bảo Đại thoái vị.

(22).Thiên sinh hữu nhất anh hùng,
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa...
Nhiều bản nói về căn cứ Thái Nguyên. Bản Mai Lĩnh viết:
Đoài phương thực có chân nhân,
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn, được nơi,
Thái Nguyên một giải làm nơi trú đình ( 231-234)

Thái Nguyên là nơi núi rừng, nhưng cũng là nơi quần anh tụ họp. Anh em Vũ Văn Mật đời Mạc đã xây căn cứ nơi đây. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Hoàng Hoa Thám đã chiến đấu nơi đây. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng hợp tác với Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Phục Quốc hội cùng lập chiến khu nơi đây. Năm 1917, Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến khởi binh chống Pháp tại đây. Khoảng 1944, Trần Trung Lập đem quân chống Pháp tại L:ạng Sơn và vùng này sau bị Pháp Nhật liên thủ tiêu diệt. Sau cùng là Hồ Chí Minh..Ông cùng Võ NGuyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng ăn nằm ở nhà bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Hanh Long. Thế mà trong CCRĐ, bọn Hồ Chí Minh đã giết bà, khiến con trai bà, chính trị viên trung đoàn và một số cán bộ, binh sĩ đã tức giận sự phản bội của cộng sản mà tự tử. Những nhà cách mạng trên đúng là quần tiên, còn Hồ Chí Minh là quỷ vương. Ông theo Liên Xô, Trung Quốc, lấy Bắc Kinh là thủ đô của Việt Nam và thế giới cộng sản.
(23).Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức này quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thưở hung hoang,
150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.
Ông Hồ xảo quyệt đa mưu diệu kế song tàn ác, và chế độ do ông thiết lập rất dã man khắc nghiệt hơn quân chủ và phong kiến khiến dân khốn khổ.

(24). Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
Hiệp định Geneve 1954 cho phép cộng sản được nửa nước. Năm mậu ngọ (1954) quân Hồ Chí Minh vào Hà Nội.
Câu này thì bản Mai Lĩnh năm 1939 cũng có.
(25). Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,(25)
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
Năm kỷ dậu (1945) dứt đệ nhị thế chiến, thế giới hòa bình.
(26).Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông,
180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.
Năm canh tuất (1946), Bảo Đại Trung Quốc rồi qua Pháp. Năm 1947, bà Nam Phương và các con qua Pháp.
(27). Lục thất: lục 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Nhà Nguyễn.
(28). Bắc hữu Kim thành tráng.(28)
Nam hữu Ngọc bích thành,
215.Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh,
Sau 1954, nước ta chia hai,có hai thủ đô là Hà Nội và Sài Gòn, một cái là thành vàng, một cái là thành ngọc. Nhưng hai nước vẫn tiếp tục chiến tranh.

(29).Cũng có kẻ non trèo biển lội,
230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh.
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai,
Sau này, có kẻ đã vượt biên sang ở Mỹ, Pháp, Canada, Úc. .. sẽ trở về cứu nước, được dân chúng ủng hộ để lập một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ thật sự như đời Đường Ngu là thời đại hoàng kim ngày xưa..


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét