Powered By Blogger

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Trí Tuệ Là Gì?

"Duy-Tuệ thị Nghiệp" đó là mệnh đề của Phật giáo.
Ai cũng có "nghiệp" và phân ra cho dễ nhận là : Thân nghiệp, khẩu nghiệ. và ý-nghiệp. Ba cái nghiệp không phải tự nhiên mà có, nó phải duyên khởi của nó theo hệ quả nhân duyên gọi là duyên sanh. Do duyên mà sanh khởi và cũng do duyên mà diệt. Cái nhận thức được tiến trình sanh diệt của các pháp sanh diệt thì gọi là trí-tuệ, nhà Phật gọi là Tuệ giác. Lấy sự sống của Tuệ giác làm Nghiệp thì có Tuệ mạng.
Vì vậy các đệ tử giác ngộ của Đức Phật Thích Ca thì gọi là Tuệ mạng, (ví dụ như Tuệ mạng Tu-Bồ Đề là vị sa-môn thưa thỉnh Đức Thích Ca
thuýêt kinh Bát Nhã Kim Cương
).
Thân khẩu và ý nghiệp của chúng sanh được dẫn dắt bởi vọng tâm phan duyên nên cứ sanh diệt luân hồi trong vô minh khốn khổ. Người giác ngộ thì có tuệ giác cho nên gọi là có Tuệ mạng. Đúng như vậy thì mới có như mệnh đề mà Phật giáo đề ra :"Duy Tuệ thị Nghiệp". Ở phần mở đầu của kinh Kim-cương Bát-nhã có câu thưa thỉnh của Tuệ mạng Tu-bồ-đề hỏi Đức Thích Ca rằng : "Bồ-tát làm thế nào để hàng phục vọng tâm và an trú chơn-tâm".
Câu hỏi này cho thấy rằng nếu không có trí-tuệ thì không thể biết được cái nào là vọng tâm và cái nào là chơn tâm, vì cả hai chơn vọng đều đồng một thể là tâm của chúng sanh, nếu không có vọng tâm thì chỉ còn chơn tâm là tâm giác ngộ của ĐứcNhư-lai rồi. (Nếu chúng sanh không có vọng tâm thì đã thành Phật).
Vì thế khi Ngài Tu-bồ-đề ca ngợi Đức Như-Lai khéo hộ niệm và ban lành cho chư Bồ tát là Ngài Tu-bồ-đề đã có trí tuệ nhận ra đựoc ơn đức của Thế-tôn luôn luôn hằng hửu hộ niệm chư Bồ-tát. Từ trí-tuệ mà phát sinh câu hỏi thỉnh Phật thuyết kinh Kim-cưong Bát-Nhã. Vì vậy ngài Tu-bồ-đề đuợc Phật khen ngợi là : Lành thay ! Lành thay.... và Phật đã nói kinh Bát-nhã mà chúng ta có được văn-tự để tụng đọc và thọ trì đến ngày nay.
Trước khi vào Vô dư Niết bàn chấm dứt 80 năm thị hiện thân người thuyết pháp độ sinh. Đức Phật có dạy rằng sau khi Ngài vắng bóng thì ngừơi con Phật phải lấy giới luật làm thầy. Tam tạng kinh điển của Phật để lại là nhằm vào việc thực tập tu hành để chứng đắc Tuệ giác như thật của Như lai. Kinh, Luật và Luận là kho tàng của Giáo môn Phật giáo. Kho tàng này là cánh cửa để tu hành cho có được Giới Định Tuệ, có được Giới ,Định, Tuệ thì mới được giải thoát khỏi khổ đau mê hoặc của sinh-tử luân-hồi. Người không giới luật thì không thể có định và tuệ. Người không Giới thì không Định. Người không Định thì không có thể có Tuệ giác. Không có Tuệ-giác thì cũng không giữ được Giới. Bởi vậy Giới là cái tính chất có Định và Tuệ trong đó. Nếu không có cái trí tuệ thông thường tương đối của phàm phu thì cũng đã không giữ được giới rồi, vì vậy phải có tu học tinh tấn thì mới hiễu được công năng mầu nhiệm của giới mà Đức Phật đã dạy. Người bị kiến hoăc mê lầm thì không thể hiểu được Giới là gì. Phải có trí tuệ mới giử được giới.
Người mất giới thì trí tuệ mê mờ và trở thành người ác kiến mà không hay biết. Ngừoi ngu mà biết mình ngu thì lại không phải là ngu thật. Còn người phá giới mà không biết mình phá giới lại cho là mình đúng thì lại trở thành phá kiến, người phá giới còn có thể sám hối làm lại cuộc đời, còn người phá kiến thì thành kẻ chặt mất căn lành, trở thành tà kiến, ác kiến mất giống trí tuệ lạc vào ngoại đạo thế gian chứ không còn là con Phật nửa. Hiện nay, Phật giáo tuy được truyền bá rộng rãi khắp nơi mà không đem lại an lành và giải thoát cho nhân loại như hoài bảo của đệ tử Phật là do tà kiến còn giam nhốt chúng sanh, giới đức của Phật-tử chưa đựoc trang nghiêm như Phật dạy nên kẻ phá giới thì nhiều mà tà kiến cũng nhiều, vì vậy nổi khổ còn bờ vô bến.
Nếu muốn đánh giá mình có đúng là con Phật hay không thì phải xem xét cụ thể xem thân, khẩu và ý của mình có lành và có giới đức như Phật dạy không, thì cũng không khó gì mà không phân biệt đựoc là đúng hay sai chánh pháp của Phật. Mượn Đạo để tạo đời cho mình thì ai cũng thấy rỏ chứ làm sao che mắt ai được. Ngày nay cái đúng cái sai rất minh bạch, nhưng có ngộ nhận sai lầm là do trí tuệ không có nên mới nhận thức không đúng và bị người lừa dối.
Người tín đồ Phật giáo hay dùng chữ "Nghiệp", vậy "Nghiệp" là gì? Nghiệp chính là cái tôi và cái của tôi. Có cái tôi thì có cái của tôi. Danh từ hán nôm gọi là "Ngã" và "Ngã sở". cái nhận thức về tôi và thế giới thì gọi là "Pháp chấp" hay danh từ Phật học gọi là "Sở tri chướng", là một thứ nhận thức chướng ngại không như thật. Nói theo giáo lý thí đó là Ngã chấp và Pháp chấp, còn gọi là Phiền não chướng và Sở tri chướng. Do chấp ngã nên bị phiền não trói buộc. Do chấp pháp nên bị sở tri chướng trói buộc. Chính nhận thức của mình trói buộc mình nên gọi là sở tri chướng. Lấy trí tuệ bát nhã quán chiếu` thật tướng của Ngã và Pháp thì gọi là nhìn sâu vào thật thể của phiền não và nhận thức của hành giả tức là có cái hiểu biết nội tại sâu xa thì gọi là hành thâm bát nhã rốt ráo để nhìn thấy thật thể của ngủ uẩn.
Xác thân, cảm thọ, tri giác, hành vi và nhận thức là năm uẩn hay còn gọi là năm ấm được soi sáng bằng trí tuệ tỉnh giác thì gọi là duy tuệ thị nghiệp. Nói đơn giản tóm gọn như vầy thì có vẻ là rất khó khăn để nhận diện từng diện mục của Ngã và Pháp, nhưng cứ từ từ phân tích và đi sâu vào từng nhóm của năm uẩn thì sẽ từ từ nhận ra được mặt mày của Ngã và Pháp. Nếu phật tử không còn chấp ngã thì phiền não chướng không còn. Nếu hành giả giải trừ tri kiến không còn chấp pháp thì không còn sở tri kiến, cái thấy biết của hành giả không bị chấp mắc để trở thành giáo điều hay chủ thuyết, chủ nghĩa lý tưởng để nhốt trói nhận thức của hành giả vào một cái lồng lý tưởng, cái tri kiến của hành giả là như thật , như thị chứ không đi qua một lý thuyết hay lối mòn của khái niệm. Hành giả thoát khỏi cặp kiến màu sở tri của khái niệm khi nhìn thưc tại đang là. Không còn Pháp chấp thì cái nhìn có trí tuệ, lời nói và hành vi cũng có trí tuệ soi sáng. Phiền não chướng do chấp ngã cũng tan đi thì sự sống là mầu nhiệm có thể chuyên chở được mọi khổ ách, vì cái tôi đã không còn mắc kẹt vào một thân xác và cảm thọ, nên cái khổ
có mặt cũng không bị ngã chấp làm cho phiền não nung nấu thân tâm, như khi còn mê lầm bất giác.
ĐứcThế Tôn khi còn mang nhục thân tứ đại này thì cũng bị đau bệnh già chết như qui luật vô thường của thân xác thịt xương tứ đại này như những người bình thường. Nhưng Ngài có tuệ giác là trí tuệ Bát-nhã nên soi thấy ngủ uẩn giai không nên chuyên chở được tất cả khổ ách. Tất cả khổ ách mà chúng sanh gánh chịu Phật đều có thể chuyên chở vô ngại, vì đối với trí tuệ như thật thì ngủ uẩn giai không. Nhưng chúng sinh thì có Ngã Phiền não và Pháp sở tri nên chướng ngại và khổ đau.
Ở kinh Thủ Lăng Nghiêm, khi ngài A-nan thoát nạn Ma-đăng-già trở về quì dưới chân Phật khóc than rằng: Con là em của Phật khi chưa xuất gia, là thị giả của Phật khi theo Phật, nên cứ ngở rằng sẽ được Phật che chở và ban cho công đức, nào dè trong lúc tu hành chưa đắc đạo thì lại găp nạn Ma-dăng già suýt mất giới thể (giới là căn bản của Tuệ mạng) may mà có Phật cứu kịp, nên giờ đây đau xót và ăn năn quá, cúi xin Đức Phật thương xót dạy cho pháp tu tập để từ nay xa lìa mê lầm không rơi vào lứơi ma nửa.
Lúc bấy giờ Đức thế tôn mới dạy bảo ông A-nan và đại chúng rằng:
Ông A-nan! sở dĩ ông và chúng sanh lưu lạc trong sanh tử nhiều đời nhiều kiếp là vì không phân biệt được căn bản của tâm bồ-đề và tâm phan duyên, nên không biết thế nào là tâm vọng và tâm chơn, vì vậy cứ mê lầm chạy theo vọng tâm phan duyên mà quên mất chơn tâm bồ đề của mình. Lấy tâm phan duyên mà tu hành thì cũng như nấu cát mà mong thành cơm quyết không thành tựu được. .....
Sau đó, Phật lại hỏi ông A-nan rằng: Bởi duyên cớ gì mà ông đi theo Phật để tu hành? Ông A-nan thưa: Do bởi tôi thấy Phật có 32 tướng tốt xinh đẹp, nên sinh tâm ngưỡng mộ theo Phật tu, bởi Phật có danh tiếng tốt lành và đức hạnh nên tôi theo Phật.
Phật liền quở ông A-nan:
Nếu như do con mắt mà ông sanh tâm thì cũng như người thấy cô gái đẹp rồi sanh tâm đi theo. Còn cái tâm của ông là cái nào hãy chỉ cho tôi xem? Bởi lúc đó ông A-nan cho ý thức của ông là tâm của ông nên ông trả lời là cái suy nghĩ tính toán suy lường trong ông là tâm của ông, nên ông cứ thưa như vậy, Lúc bấy giờ Phật bảo rằng cái suy nghỉ tính toán đó là không phải tâm ông. Nghe Phật bảo như vậy ông A-nan và đại-chúng giật mình không thể ngồi yên được.
Sau đó Phật mới an ủi và dạy rằng cái suy nghĩ của ý thức là tâm phan duyên, nó là vọng tâm chứ không phải chơn tâm. Nó là cái do duyên sanh, nên là vọng chứ không phải có thật như tâm bồ đề là cái tri giác thường trú không do duyên sanh và không diệt khi các duyên bị diệt. Sau 7 lần gạn hỏi tâm ở nơi nào thì ông A-nan không thể trả lời được, ông trả lời mãi mà vẫn không thể nào trúng được. Nếu mang kinh văn ra xem thì thú vị hơn, vì kể lại thì dài dòng mất nhiều thì giờ chứ không thể tóm gọn vài hàng được. Khi đó Phật đánh một tiếng chuông rồi hỏi ông có nghe không ? Ô Anan và đại chúng thưa rằng có nghe . Phật không đánh chuông mà hỏi rằng có nghe không, thì ông thưa rằng không nghe, Phật lại đánh chuông và lại hỏi, khi có chuông thì bảo nghe, không đánh chuông thì bảo không nghe. Do đó Anan và đại chúng bị Phật quở rằng nói sai, bởi vì tiếng chuông dù có hay không thì tánh nghe vẫn có đó, không vì có cái lổ tai và tiếng chuông mới có nghe. Tánh nghe là thường hằng dù không có cái tai và tiếng động thì tánh nghe vẫn có chứ chẳng phải không có. Rồi đến con mắt và cái thấy, nếu người có con mắt mà ở trong căn phòng tối thì cũng như người mù, dù không có con mắt, nhưng người mù thấy tối đen chứ đâu phải là không thấy. Tất cả 5 giác quan khác đều như vậy. Cái mình nhìn thấy chỉ là bóng dáng của tiền cảnh nên gọi là do duyên sanh, có duyên thì thấy bóng dáng hoặc nghe hay ngửi nếm v.v.. vì vậy gọi là phan duyên là tâm phan duyên của mình chứ thật tướng của cảnh chưa chắc lúc nào cũng vậy vì qui luật biến dịch vô thường của vạn hửu là không cố định. Do đó các pháp là bất định pháp. Nhưng cái tâm bồ đề là tri giác tỉnh thức thì cảnh dù có biến dịch thay đổi thì cái tánh biết vẫn biết như tiếng chuông dù có đánh hoặc không đánh thì tánh nghe vẫn nghe. Ví như buổi sáng tia nắng chíếu vào phòng, trong tia nắng có rất nhiều hạt bụi bay trong hư không đựoc tia nắng làm hiển lộ, mình thấy bụi nhiều nhưng là khách còn hư không là chủ, bụi có xao động sanh diệt, nhưng hư không thì không sanh diệt. Như cái quán trọ thì khách đến rồi đi, chứ chủ nhà vẫn ở lại. Lấy nhiều ví dụ cho dễ hiểu rằng : Chơn tâm thì thường trú và thể tánh của chơn tâm thì thanh tịnh và thường sáng suốt, còn vọng tâm thì sanh diệt theo các duyên.
Bởi vậy kinh Thủ Lăng Nghiêm mới đưa ra các phương pháp để thực tập , để trở về an trú trong chơn tâm và hàng phục vọng tâm. Lại có những lý luận biện minh dựa vào cái thực sự xảy ra có thể hiểu được, để thực tập và tu chứng như người uống nước thì nóng hay lạnh tự biết, không thể nghe người khác ăn mà mình no được. Vì vậy trí tuệ là cái mà người hành giả phải thực chứng chứ không phải dùng ý thức suy lường mà cho là đã chứng được, hiểu được và chứng được thực tướng của trí tuệ thì cách xa nhau nhiều lắm,..
Vì đạo và đời là một thể không tách biệt được. Phải xem cái nghiệp của thân khẩu ý mà giám định cái thực chứng của một hành giả. Phải cẩn thận suy xét cái giả tướng chớ bị đánh lừa thì mới gọi là có trí tuệ. Chưa thoát được Phiền Não và tà kiến của tri thức của chính mình thì có nói gì cũng còn cách xa trí tuệ thực sự. Phải thực tập quán chiếu nội tâm của mình thì mới tìm thấy được tri kiến giải thoát của trí tuệ là gì.
Chưa ra khỏi nhà phiền não thì trí tuệ nào cũng chỉ là trí hữu lậu của thế gian.
http://www.tangthuphathoc.net/lathuphathoc/37-trituelagi.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét