Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011
Xã hội hóa giáo dục và vai trò của Nhà nước
Hiện vẫn còn khá nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xã hội hóa giáo dục. Từng giảng dạy tại CHLB Đức, GS.TS. Nguyễn Vân Nam muốn đóng góp cách nhìn của ông về vấn đề này.
Vai trò của giáo dục lớn tới mức, nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một dân tộc. Vì sao vậy? Vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị xã hội.
Nền giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng, bảo vệ được một hệ giá trị nhân bản, phù hợp với đặc trưng tốt đẹp của dân tộc và vì vậy đủ sức mạnh làm nền tảng cho xã hội phát triển, hưng thịnh; ngược lại, với nền giáo dục kém và hệ quả đi kèm với nó, hệ giá trị yếu thì dân tộc đó khó có sức bật đi lên.
Trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, nhiều quốc gia phương Tây càng chú trọng phát triển giáo dục, coi đấy như một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Họ ý thức rất rõ rằng trong thế giới ngày càng trở nên “phẳng” và mọi thứ đều giống nhau, một dân tộc muốn “nhận diện” được so với các dân tộc khác chỉ có thể dựa vào bản sắc dân tộc và nếu bản sắc dân tộc không còn thì điều đó đồng nghĩa với thảm họa dân tộc ấy sẽ bị xóa sổ, hòa tan.
Mặt khác, ngoài chức năng bao trùm trên, giáo dục còn mang một nhiệm vụ không kém phần quan trọng, đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển hay cụ thể hơn là hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ hội, ai cũng như ai, tiếp thu những giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo dục đã đưa lại cho họ.
Với ý nghĩa này, Hiến pháp của nước ta cũng coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”; “mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân” (điều 35); “học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân” (điều 59). Cần lưu ý rằng trách nhiệm biến những chức năng ấy của giáo dục thành hiện thực thuộc về Nhà nước; đây là nhiệm vụ cơ bản nhất của Nhà nước mà nếu từ bỏ nó, Nhà nước sẽ mất đi tính chính danh của mình. Sở dĩ như vậy vì chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn lực, điều kiện cần thiết để làm việc đó và hơn thế nữa, như trên đã nói, giáo dục liên quan mật thiết với sự hưng vong của xã hội nên muốn tồn tại, phát triển, Nhà nước phải đẩy mạnh giáo dục.
Vậy xã hội hóa giáo dục là gì? Nói một cách nôm na, đó cũng chỉ là một trong những phương cách để nhà nước thực hiện nhiệm vụ hiến định là tạo điều kiện cho con em của mọi tầng lớp trong xã hội đều được đến trường và mọi cái gì cản trở nó đều không phải xã hội hóa giáo dục. Nói cách khác, xã hội hóa giáo dục (hay không xã hội hóa) dù kiểu nào đi chăng nữa đều phải nhằm đạt được những mục tiêu thiết yếu của giáo dục và nhà nước, trong mọi trường hợp, luôn luôn phải chịu trách nhiệm chính, không thể chuyển giao trách nhiệm của mình cho ai khác. Càng không thể lợi dụng xã hội hóa để biến giáo dục, nhiệm vụ chính danh của nhà nước, thành một ngành kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu thay thế.
Điển hình cho quan niệm như trên về phát triển giáo dục là CHLB Đức. Học sinh, sinh viên ở đây từ cấp phổ thông đến đại học đều được hưởng chế độ miễn học phí. Ngoài ra, riêng những học sinh, sinh viên nghèo (không đủ điều kiện vật chất sống tối thiểu) còn được nhà nước trợ cấp, “bù” thêm tài chính để họ có thể an tâm sống và học tập. Ngoài hệ thống trường công lập, tại Đức có tới 2.500 trường tư. Trong số ấy, theo quy định của pháp luật, bất kỳ trường tư nào được nhà nước công nhận văn bằng có giá trị tương đương trường công thì nhà nước có nghĩa vụ cung cấp toàn bộ tài chính cho hoạt động của trường đó. Điều này cho thấy giáo dục trong mọi trường hợp là nhiệm vụ không thể tách rời của nhà nước, kể cả khi giáo dục được xã hội hóa và cho tư nhân tham gia.
Tuy nhiên, không nên hiểu xã hội hóa giáo dục một cách đơn giản dưới góc độ huy động nguồn vốn đầu tư mà phải mở rộng ra nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.
Trước hết, là dưới góc độ của người đi học. Xã hội hóa giáo dục ở đây có nghĩa tạo điều kiện để làm sao cho người đi học được tham gia vào việc quản lý của trường cũng như xây dựng chương trình học tập, giảng dạy. Ở Đức, trong hội đồng xét chọn chương trình của trường cũng như ở cấp thành phố, ngoài thành phần thầy cô, bắt buộc phải có đại diện học sinh tham gia. Ngoài ra, mỗi trường đều có một hội đồng riêng của học sinh, sinh viên (để đánh giá, góp ý cho nhà trường về chương trình, phương pháp giảng dạy…) và vì nó giúp cho nhà nước thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình nên hoạt động của hội đồng này cũng nằm trong số đối tượng mà nhà nước có nghĩa vụ hỗ trợ, đặc biệt là về mặt tài chính.
Ở một góc độ khác, xã hội hóa giáo dục nhìn từ phía thầy giáo, nhà trường chính là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền tự do giảng dạy của họ hơn nữa. Ví dụ, ở Đức trước đây nhà nước đặt ra chương trình giảng dạy cố định, bắt thầy giáo phải dạy theo chương trình đó, kể cả phương pháp sư phạm. Với quá trình xã hội hóa, từng trường, từng địa phương, từng đối tượng học sinh được quyền có chương trình cũng như cách thức giảng dạy riêng cho phù hợp.
Còn dưới góc độ phụ huynh, xã hội hóa giáo dục là nhằm đảm bảo cho họ quyền tự do lựa chọn nơi học tập cho con em của họ. Có những gia đình giàu có, muốn con em của họ vào học ở những trường tốt hơn thì nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức mở những cơ sở giáo dục tiện nghi, chất lượng cao hơn để đáp ứng nhu cầu. Nhưng, một lần nữa xin lưu ý xã hội hóa giáo dục không có nghĩa là nhà nước chuyển giao hay phó thác nhiệm vụ hiến định của mình cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà là tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo dục, sao cho nó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, sao cho ai cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện hưởng cơ hội vào đời như nhau.
Nguyên Tấn ghi
Kinh tế Tri thức- phép màu Kinh tế mới
GS-TS Nguyễn Vân Nam, LL.M.
Kinh tế tri thức (KTTT) từ vài năm nay đã trở thành một khái niệm kinh tế thời thượng ở các nước phát triển (CNPT). KTTT được tiên đoán sẽ là cuộc cách mạng của mọi cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại, sẽ tạo ra những bước ngoặt, những thay đổi căn bản với những hậu qủa không thể dự đoán được trong mọi mặt cuộc sống con người. Các nước đang phát triển (CNÐPT) cũng chợt khám phá KTTT như một phép màu có thể giúp họ nhanh chóng đuổi kịp và vượt CNPT. Liệu hy vọng này có dựa trên cơ sở lý luận thuyết phục, có khả năng trở thành hiện thực hay không? cũng là một câu hỏi quan trọng của các nước cung cấp Viện trợ phát triển.
Ðược tài trợ của nhiều nước cấp viện, lần đầu tiên một cuộc Hội thảo quốc tế về Kinh tế Tri thức đã được trường Ðại học tổng hợp Humboldt và Ðại học Tự Do tổ chức tại Berlin (CHLB Ðức) vào tháng 05.2000 với chủ đề: „ Những vấn đề trong tương lai của Trật tự Kinh tế Thế giới mới“. Là một người tham dự hội thảo, xin tóm tắt các ý kiến được sự nhất trí cao của hội thảo như sau:
Kinh tế tri thức là gì?
Có người dẫn lời Các Mác nói rằng, khi hàm lượng cơ bắp trong sản phẩm do con người làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện giai cấp công nhân khoa học. Và cho rằng điều đó đang được chứng minh trong nền Kinh tế Tri thức (KTTT). Thực ra, không cần phải đến KTTT mới xuất hiện giai cấp công nhân khoa học của Mác. Trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại được tự động hóa hoàn toàn như sản xuất xe ô tô, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất hóa chất… hàm lượng cơ bắp đã được giảm đến mức thấp nhất ngay từ khi chưa xuất hiện khái niệm KTTT. Cũng có những ý kiến đánh đồng KTTT với một số ngành kinh tế thường được gọi là ngành kinh tế mới như Kinh tế Internet, hay Công nghệ tin học và truyền thông, để từ đó cho rằng KTTT là nền kinh tế dựa vào tri thức với sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, trong đó kinh tế Internet trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng rõ ràng là, bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào cũng phải dựa vào tri thức và nền kinh tế Internet cũng chỉ là một trong những ngành kinh doanh, tuy đóng một vai trò ngày càng quan trọng, nhưng không thể trở thành một ngành kinh doanh độc lập mang tính quyết định cho một nền kinh tế được.
Mới chỉ trong vài năm gần đây, qua theo dõi sáu ngành công nghiệp then chốt của tương lai là công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ kỹ thuật hàng không-vũ trụ mới, và công nghệ kỹ thuật bảo vệ môi trường, người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của một nền kinh tế hoạt động theo một công thức khác hẳn về bản chất so với công thức của nền kinh tế hàng hóa mà loài người từng biết. Hoạt động của nền kinh tế hàng hóa- dù đó là kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch- đều tuân theo công thức nổi tiếng: Tiền – Hàng – Tiền. Trong khi đó, nền kinh tế mới xuất hiện lại hoạt động theo công thức: Tiền- Tri thức- Tiền.
Theo đánh giá chung của những học giả hàng đầu ở phương Tây thì ngày nay KTTT mới chỉ đang định hình ở 03 nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ, Ðức và Nhật bản. Vì vậy chưa thể đưa ra được một định nghĩa hay một công thức xác định thế nào là KTTT. Thông qua nghiên cứu sáu ngành công nghiệp then chốt đã nói ở trên, người ta chỉ có thể ghi nhận được một số đặc trưng cơ bản nhất- cần chứ chưa phải đã đủ- của nền kinh tế mới này như sau:
- Sự xuất hiện các xí nghiệp sản xuất được tự động hóa cao độ và rất linh hoạt, do tác động đồng bộ của tiến bộ khoa học trong hàng loạt lĩnh vực, mà đặc biệt là trong Công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông. Sản phẩm của những xí nghiệp này là những sản phẩm “thông minh”. Ðó là những sản phẩm không chỉ chứa một hàm lượng thông tin cao, mà còn cả một hàm lượng tri thức cao hơn hẳn về chất lượng so với sản phẩm công nghiệp cổ điển, có khả năng sử dụng, xử lý thông tin làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu riêng biệt của khách hàng. Trong năm 2000, những sản phẩm thông minh (ví dụ: hệ thống dẫn đường cá nhân) đã tạo ra tới 30% giá trị của một chiếc xe ô tô loại sang trọng và ngày càng trở thành yếu tố cạnh tranh quyết định trong ngành sản xuất xe ô tô.
- Các công nghệ mới đang làm thay đổi triệt để qúa trình sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Chẳng hạn, kỹ thuật Gen bắt đầu thay đổi một cách căn bản qúa trình sản xuất, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm trong công nghiệp dược phẩm, công nghiệp hóa chất. Tương tự như vậy, công nghệ sản xuất vật liệu mới cũng thay đổi một cách sâu sắc sản phẩm của công nghiệp sản xuất vật liệu cổ điển. Ví dụ: Sứ có tính năng đặc biệt đã được dùng trong công nghiệp sản xuất ô tô. Trong tương lai không xa sẽ xuất hiện động cơ bằng sứ chịu được nhiệt độ cao hơn hẳn thế hệ động cơ hiện tại và vì vậy sẽ tiết kiệm nhiều nhiên liệu hơn. Hay những vật liệu siêu tinh khiết mới cho công nghiệp sản xuất vi mạch điện tử, v.v…
- Lý thuyết của Ricardo về lợi thế đối chiếu (so sánh) vùng không còn giá trị nữa đối với sáu ngành công nghiệp then chốt. Theo Ricardo, mỗi nước do điều kiện tự nhiên đều có sẵn những thuận lợi đặc biệt cho việc sản xuất những hàng hóa nhất định so với nước khác. Chẳng hạn nước Bồ đào nha đầy ánh nắng mặt trời sẽ có lợi thế vùng lớn hơn Anh quốc trong việc sản xuất rượu vang; ngược lại, Anh quốc được lợi thế hơn trong sản xuất vật liệu. Lợi thế vùng theo thuyết Ricardo hiện đại được đánh giá qua ba yếu tố sản xuất quen thuộc là: đất, vốn tư bản, sức lao động. Rõ ràng các yếu tố này có trở thành lợi thế cho sản xuất hay không là rất khác nhau đối với mỗi quốc gia. Trong nền KTTT, lợi thế vùng này không tồn tại vì phần đóng góp của giá đất, sức lao động là hết sức nhỏ bé so với phần của tri thức trong qúa trình sản xuất. Với thị trường tài chính có tính chất tòan cầu, việc gọi vốn không còn phụ thuộc vào biên giới quốc gia nữa và do số vốn đầu tư trong KTTT rất lớn, lại phải huy động trong khoảng thời gian ngắn nên- nói chung- nó cũng nằm ngoài khả năng của một nước công nghiệp phát triển. Vì vậy, những lợi thế sản xuất trong KTTT chỉ có thể do chính các doanh nghiệp tạo ra. Ðể so sánh, nên lưu ý là thuyết Ricardo hiện vẫn còn nguyên giá trị trong qúa trình toàn cầu hóa nền kinh tế hàng hóa hiện đại. CNÐPT trong một thời gian dài nữa vẫn phải coi việc phát huy lợi thế về sức lao động, giá đất là chiến lược hấp dẫn đầu tư.
- Vốn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà máy sản xuất trong nền KTTT là hết sức lớn. Ðể có thể hoàn vốn đầu tư, sản phẩm phải được sản xuất với số lượng lớn tối đa. Không những thế, doanh nghiệp trong KTTT phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác được tung ra thị trường, đây là điều xẩy ra rất nhanh trong KTTT. Thị trường của các doanh nghiệp trong nền KTTT vì vậy phải là thị trường toàn cầu. Rõ ràng là chỉ có không nhiều doanh nghiệp đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh gay gắt này. Và cũng sẽ chỉ có một vài quốc gia đủ khả năng hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn kinh doanh tòan cầu, cũng như giữ ổn định môi trường luật pháp-xã hội-chính trị để các công ty này không chuyển trụ sở sang nước khác.
- Giá trị vốn Tri thức thay đổi hết sức nhanh chóng. Một Tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ dollars, ngay ngày mai đã có thể vô giá trị. Vì vậy, sức ép cạnh tranh về thời gian, hiệu qủa hình thành và sử dụng tri thức là rất lớn.
Như vậy, ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ nhất để trả lời câu hỏi “KTTT là gì?” như sau: KTTT là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức được thể hiện qua các mặt sau đây:
- Hàm lượng Tri thức trong qúa trình sản xuất phải chiếm phần quyết định. Theo nhiều học giả thì hàm lượng này phải chiếm ít nhất là từ 60 đến 65% giá thành sản xuất và ít nhất là 35% giá trị sản phẩm. (Các con số này trong một số ngành công nghiệp then chốt ở Ðức hiện nay trung bình là 60 và 30%, ở Hoa Kỳ là 62 và 35%). Hàng hóa trong KTTT là Tri thức.
- Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong KTTT, Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản xuất. Trí thức để xử lý tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lý điều hành… cũng trở thành hàng hóa và đó là những thứ hàng hóa được sản xuất không theo qui trình sản xuất quen thuộc trong nền Kinh tế Hàng hóa. Chưa bao giờ Hàng hóa của một nền Kinh tế lại đồng thời giữ nhiều vai trò quyết định khác nhau đến vậy trong cả phương thức sản xuất lẫn quan hệ sản xuất như Tri thức trong nền Kinh tế Tri thức. Còn qúa sớm để dự báo những thay đổi quan hệ xã hội trong tương lai. Nhưng chắc chắn KTTT sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để và hết sức sâu rộng trong xã hội hơn tất cả những thay đổi do các cuộc cách mạng công nghiệp, khoa học kỹ thuật và xã hội mà loài người từng trải qua. Người ta đã bắt đầu nói đến Xã hội Tri thức.
- Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn càng ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, xử lý, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Vì vậy, việc tiếp cận và trao đổi Tri thức ở phạm vi toàn cầu trong KTTT có ý nghĩa sống còn. Cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh với thời gian. Ðể bảo đảm sự phát triển bình thường của mình, KTTT sẽ dẫn đến việc xóa bỏ biên giới quốc gia, ít nhất và trước mắt là trong lĩnh vực thông tin.
- Do tích chất đặc biệt của hàng hóa Tri thức, không những các ngành công nghiệp sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học mà cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị cũng phụ thuộc và đan quyện vào nhau một cách chặt chẽ hơn bao giờ hết trong KTTT. KTTT- với sản phẩm là Tri thức- sẽ dẫn đến tái cấu trúc kinh tế-xã hội và chính trị trên phạm vi toàn cầu. Trước mắt, cuộc cạnh tranh giữa các nhà nước (các nước công nghiệp phát triển) trong tư cách các hệ thống kinh tế- xã hội- chính trị với những lợi thế khác nhau về luật lệ, về thuế, về tiêu chuẩn an sinh xã hội… đã bắt đầu trở nên gay gắt để thu hút đầu tư. Ai tái cấu trúc nhanh, người đó sẽ thắng.
Ðiều kiện hình thành KTTT.
Trước hết, cần khẳng định rằng, KTTT không phải là một bước nhảy đột biến, hay sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao hơn nữa- có tính tiến hóa- của nền kinh tế hàng hóa tư bản với sự kế thừa các qui luật của nền kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển nhất đã tạo tiền đề cho sự ra đời KTTT.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên vào cuối thế kỷ 18 tại Anh quốc đã đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới. Ðồng thời nhận chìm Trung Quốc và Ấn Ðộ- là hai nước vào thế kỷ 17 còn giàu hơn cả Châu Âu- xuống hàng các nước thuộc địa và ngày nay vẫn còn là những nước đang phát triển. 100 năm sau, với ba ngành công nghiệp mới là Ðiện, Hóa chất và Chế tạo động cơ đốt trong, Ðức và Mỹ đã trở thành hai cường quốc hàng đầu của thế giới trong giai đoạn hai của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cũng đúng 100 năm sau vào cuối thế kỷ 20, chúng ta đang đứng ở trung tâm cuộc cách mạng thứ hai: cuộc cách mạng kinh tế-xã hội-công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Chính cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ tin học. Qúa trình phát triển kinh tế- xã hội này tại Mỹ, Ðức và Nhật bản đã tạo được những tiền đề sau đây cho sự hình thành KTTT:
- Tự động hóa cao độ: Tự động hóa cao độ quá trình sản xuất không những giảm đến mức thấp nhất chi phí cho những yếu tố phi tri thức, mà còn rút ngắn một cách căn bản thời gian từ khi nghiên cứu phát triển đến sản xuất hàng loạt. Và như vậy mới gia tăng một cách đáng kể hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Ngoài ra, chỉ có sự tự động hóa cao độ mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất sản phẩm vừa với số lượng lớn, vừa rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của khách hàng ở những thị trường khác nhau trên thế giới.
- Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ. Ðây là một trong những điều kiện căn bản nhất bảo đảm sự phát triển của KTTT. Nó không những là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức, mà còn là điều kiện bảo đảm hiệu qủa việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế-xã hội khác. Trong sản xuất-kinh doanh, sự phát triển công nghệ này đã dẫn đến cái mà chúng ta thường nghe nói: cuộc cách mạng giảm chi phí quản lý-điều hành. Chi phí liên lạc rất thấp cũng góp phần không nhỏ giúp doanh nghiệp có những phản ứng kịp thời cho mọi biến động trên phạm vi tòan cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa doanh nghiệp. Ngoài ra, công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử dụng hàng hóa tri thức.
- KTTT chỉ có thể xuất hiện tại những quốc gia đã đạt được trình độ cao nhất trong lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển.
- Bảo vệ có hiệu qủa một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ Tri thức. Ðó là một môi trường pháp lý bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó gía trị Tri thức được bảo vệ có hiệu qủa bằng luật sở hữu Trí tuệ; sở hữu tư nhân phải được tôn trọng và bảo vệ.
- Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu. Như đã nói ở trên, doanh nghiệp trong KTTT vừa cần vốn đầu tư khổng lồ, vừa phải chạy đua với thời gian và đương đầu với những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết, hoạt động của họ trong KTTT phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trường tài chính. Ngược lại, sự ổn định của thị trường tài chính cũng gắn bó mật thiết với công cuộc kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan hệ đan quyện phức tạp và nhậy cảm như vậy chỉ có thể thành công tại những quốc gia đã có nền kinh tế thị trường vững mạnh.
- Sau cùng, nhưng quan trọng hơn cả, đó là KTTT chỉ có thể hình thành ở những nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở những qui luật thị trường trong một khung pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tùy tiện.
- Một số học giả phương Tây cho rằng trình độ đào tạo dân trí cũng có thể được xem như điều kiện tiên quyết hình thành KTTT. Và rút ra kết luận là không nên đặt vấn đề đầu tư xây dựng các ngành công nghiệp then chốt của KTTT tại CNÐPT. Theo tôi, trình độ đào tạo dân trí đóng một vai trò không thể thiếu để hình thành nguồn cung cấp tri thức, và giúp người dân với tư cách người tiêu thụ sử dụng tốt hàng hóa tri thức. Chứ không phải là một điều kiện tiên quyết. Một trong những khác nhau căn bản của KTTT với các hình thái Kinh tế sử dụng tri thức khác là sự gia tăng- có tính chất đột biến- giá trị Tri thức “nguồn” (cũng có tác giả gọi là Tri thức đầu vào) thông qua qúa trình sản xuất đặc trưng trong KTTT với sự tham gia của các nguồn Tri thức khác. Không có qúa trình sản xuất rất đặc thù này, Tri thức nguồn vẫn chỉ là những thông tin với vai trò quen thuộc trong Kinh tế Hàng hóa.
Các nước ÐPT có thể đi tắt đón đầu KTTT được không?
KTTT là hình thức phát triển mới, cao hơn của Kinh tế hàng hóa tư bản. Nó là sản phẩm tiến hóa. Thành qủa của các cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng kinh tế-công nghệ và xã hội là điều kiện cho việc hình thành KTTT. Muốn xây dựng KTTT thì phải tạo được các điều kiện hình thành ấy. Vì vậy không thể đi tắt đón đầu.
Trên lý thuyết, mỗi quốc gia không có ý định đi tắt, đón đầu, đều có thể xây dựng KTTT. Nhất là hiện nay CNÐPT có thể sử dụng ngay những thành tựu công nghệ mới và tận dụng sự ủng hộ về tài chính của cộng đồng quốc tế, để đẩy nhanh tốc độ phát triển tuần tự cơ sở kinh tế-xã hội của mình. Thế nhưng có một số lý do khiến cho việc theo đuổi mục tiêu xây dựng KTTT ở CNÐPT sẽ trở thành không tưởng và không mang lại lợi ích thực tế:
- Trước hết, CNÐPT phải tự hỏi sẽ cần bao nhiêu năm để xây dựng thành công những cơ sở đã nói ở trên của KTTT? Ðể so sánh, cần lưu ý rằng, muốn đạt trình độ phát triển kinh tế-xã hội trung bình như hiện nay của Liên minh Châu Âu (EU), các nước Ðông Âu mới được kết nạp vào EU như Balan, Hungari, Tiệp- là những nước đã xây dựng nhà nước Dân chủ Pháp quyền từ hơn 15 năm nay- phải cần ít nhất là 20 năm nữa với sự giúp đỡ toàn diện của EU. Trong khi đó, KTTT chỉ mới xuất hiện ở Ðức- nước hùng mạnh nhất Châu Âu. Khi một số nước ÐPTxây dựng được cơ sở KTTT, có lẽ trên thế giới đã xuất hiện Kinh Tế Trí tuệ Nhân tạo. Ðiều nguy hiểm là ở chỗ: trong thời đại tòan cầu hóa hiện nay, ai không hội nhập được hoặc không muốn hội nhập vào kinh tế quốc tế, kẻ đó sẽ bị lãng quên, bị bỏ rơi và sẽ mãi mãi tụt hậu.
- Khi tạo được cơ sở cho KTTT rồi, CNÐPT sẽ phải đương đầu với một vấn đề không thể giải quyết nổi: tập trung vốn khổng lồ cho việc phát triển KTTT. Thị trường tài chính quốc tế lúc bấy giờ đã không còn biết gì đến KTTT, mà có lẽ chỉ còn quan tâm đến nền KT Trí tuệ Nhân tạo mà thôi.
- Hiện nay, sự cách biệt về khả năng hình thành và sử dụng Tri thức giữa CNPT với CNÐPT còn lớn hơn rất nhiều so với cách biệt về thu nhập tính theo đầu người. Bên cạnh một số nguyên nhân như sức mạnh kinh tế, sự hoạt động hiệu qủa của cơ quan công quyền, viện nghiên cứu v…v, thì hiệu qủa hoạt động sáng tạo,hình thành tri thức cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ra cách biệt này. Nhưng hoạt động sáng tạo tri thức chỉ có thể được mở rộng và phát triển đáp ứng nhu cầu hình thành KTTT ở những nơi đã có sẵn: a) các tổ chức nghiên cứu hoạt động hiệu qủa; b) sự phối hợp hoạt động tốt của mạng lưới các tổ chức nghiên cứu, dịch vụ và sản xuất; c) dễ dàng tiếp cận, mở rộng và ứng dụng các kết qủa nghiên cứu trước đó; d) lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển hoạt động hiệu qủa và được đầu tư lớn,thường xuyên. Ðây là những điều kiện tiên quyết mà CNÐPT còn thiếu và trong một tương lai trung hạn cũng sẽ không thể có được do hầu như không nhận được hỗ trợ tài chính quốc tế. Chúng ta để ý rằng, ngay từ bây giờ đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển đã là đầu tư cơ bản nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp. Ai muốn tồn tại trong Toàn cầu hóa, hội nhập thành công vào KTTT không muốn và cũng không thể đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của đối thủ.
- Những đặc trưng đầu tiên của KTTT cũng đủ cho thấy rằng nó không là một nền Kinh tế quốc dân, mà sẽ là một nền Kinh tế có tính chất toàn cầu dưới sự dẫn dắt của một vài quốc gia hùng mạnh nhất và sẽ do một số tập đoàn kinh doanh toàn cầu chi phối. Tìm cách xây dựng một nền KTTT quốc dân trong bối cảnh như vậy không phải là khôn ngoan và có thể sẽ gây hoang phí sức người sức của đến mức bị tụt hậu không thể cứu vãn.
Thời gian gần đây, nhiều nước ÐPT hô hào phát triển nhanh, mạnh Công nghệ tin học và truyền thông, coi nó như một cây cầu, một lá bài mầu nhiệm dẫn đến KTTT. Nhưng thực ra, nó không phải là một cây cầu mà chỉ là một trong những trụ cầu. Và cũng như mọi trụ cầu khác, nó phải được xây dựng trên một nền móng vững chắc. Vai trò then chốt của Công nghê Tin học và Truyền thông là điều không cần bàn cãi. Gần đây người ta đã nói đến cuộc cách mạng sinh học sử dụng công cụ là Công nghệ tin học. Thế nhưng nên lưu ý rằng, cũng như các ngành công nghiệp then chốt khác, Công nghệ này thực chất là một phức hợp của rất nhiều ngành nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh khác nhau. Chúng chỉ phối hợp với nhau một cách có hiệu qủa khi có cùng một trình độ phát triển nhất định và với một cơ sở hạ tầng thích hợp. Vì vậy, việc chỉ chú trọng phát triển công nghệ này như một ngành kinh tế độc lập, hay nhầm lẫn nó là KTTT, sẽ dẫn đến sự phát triển mất cân đối nặng nề nền kinh tế quốc dân và hoang phí sức người sức của.
Tuy vậy, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào, KTTT cũng cần thị trường và sự phân công lao động hợp lý. Làm sao để nước mình trở thành thị trường lao động chuyên biệt tham gia có hiệu qủa vào qúa trình sản xuất quốc tế và sẵn sàng trở thành thị trường tiêu thụ không thể bỏ qua trong nền KTTT Toàn cầu, mới chính là chiến lược phát triển đúng đắn nhất của các nước đang phát triển.
Sg 08.02.2005
GS-TS Nguyễn Vân Nam hiện đang là giám đốc điều hành một công ty luật liên doanh tại TP.HCM. Ông từng giảng dạy bộ môn luật sở hữu trí tuệ (SHTT) và luật cạnh tranh ở Trường đại học Humboldt (Berlin). Luận án đầu tiên của ông ở Đức là thạc sĩ về lý thuyết kinh tế vĩ mô, sau đó thạc sĩ về luật SHTT, tiến sĩ về luật hành chính công và năm 2000 lấy bằng tiến sĩ khoa học về luật tổ chức nhà nước và công pháp quốc tế. Ông được phong giáo sư tại Đức năm 2002. Tháng 12-2003, ông đã hoàn thành đề tài “Xây dựng và thực hiện chiến lược SHTT cho doanh nghiệp VN trong thời kỳ hội nhập quốc tế” theo đơn đặt hàng của Sở Khoa học và công nghệ TP.HCM. |
Hiện nay, Nhà xuất bản Trẻ đã dịch ra tiếng Việt cuốn sách “Toàn cầu hóa và sự tồn vong của Nhà nước” của ông được xuất bản bằng tiếng Đức năm 2002 tại Đức và Hà lan
Chiến lược về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ để phát triển kinh tế.
GS-TS Nguyễn Vân Nam (CHLB Đức)
Các Nước Phát Triển (CNPT) đã sử dụng quyền SHTT như một công cụ chính trị-kinh tế đắc lực để hỗ trợ sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế. Bảo hộ Sáng chế được CNPT sử dụng như một công cụ đặc biệt để: Định hướng phát triển công nghiệp; Hấp dẫn đầu tư có chọn lọc;Thúc đẩy chuyển giao công nghệ; Thúc đẩy phát huy sáng kiến cải tiến khai thác công nghệ; Bảo vệ doanh nghiệp trong nước;và Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong thời đại Toàn cầu hóa, quyền SHTT đã trở thành một yếu tố hấp dẫn đầu tư quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp.
I. Ảnh hưởng của quyền SHTT đến phát triển Kinh tế.
Cho đến những năm 70 của thế kỷ trước, vốn tài chính và sức sản xuất vẫn được coi là yếu tố quyết định phát triển kinh tế. Nhưng vào những năm 80, lý thuyết phát triển kinh tế này đã tỏ ra bất lực trong việc giải thích, giải quyết các hiện tượng tăng trưởng mới. Ra đời sau đó, lý thuyết tăng trưởng kinh tế trên cơ sở tri thức và tính không hoàn thiện của thị trường đã nhanh chóng trở thành cơ sở lý luận quan trọng nhất khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Ngày nay, hiệu qủa hình thành và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định phát triển kinh tế.
a) Ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước giàu với các nước nghèo (Quan hệ Bắc-Nam)
Khi một nước ĐPT theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế, nó cần phải có Know-How, cần tri thức. Đây là một thách thức rất lớn đối với đa số CNĐPT. Bởi sự cách biệt giữa nước nghèo và nước giàu trong việc tạo ra và thu nhận tri thức còn lớn hơn rất nhiều so với khác biệt thu nhập tính theo đầu người. Bên cạnh sức mạnh kinh tế, sự hoạt động có hiệu qủa của cơ quan công quyền, viện nghiên cứu v…v thì hiệu qủa hoạt động sản xuất tri thức cũng là một nguyên nhân quan trọng làm nên sự khác biệt này. Như vậy, hoạt động sáng tạo sẽ được mở rộng và phát triển tốt ở những nơi đã có sẵn: a) Các tổ chức Nghiên cứu; b) Sự phối hợp hoạt động tốt của mạng lưới các tổ chức nghiên cứu, dịch vụ và sản xuất; và c) Ở những nơi mà các kết qủa nghiên cứu trước đó dễ dàng được mở rộng và áp dụng. Điều này dẫn đến hệ qủa là hoạt động Nghiên cứu & Phát triển sẽ chỉ tập trung ở một vài trung tâm, một vài quốc gia. Nói một cách khác: các nước nghèo có thể sẽ bị gạt ra bên lề qúa trình phát triển chung.
Đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển là điều kiện tiên quyết để hình thành, sáng tạo và sử dụng tri thức. Nhưng đây cũng là sự đầu tư với kết qủa thường là không chắc chắn. Vì vậy, CNPT sử dụng quyền SHCN như một công cụ kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển. Hiện tại, phần lớn thành qủa sáng tạo hình thành tại các nước giàu. CNPT sản xuất sản phẩm mới. Chúng được chuyển dần sang sản xuất hàng loạt, tiêu thụ tại CNĐPT qua con đường chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp. Cạnh tranh sản xuất-tiêu thụ tại CNĐPT gây sức ép ngược lại buộc các nước công nghiệp phải giữ được nhịp độ sáng tạo. Như vậy, bảo hộ SHTT-mà đặc biệt là Sáng chế- ở CNĐPT thúc đẩy chạy đua sáng tạo ở CNPT, đồng thời gây trở ngại cho hoạt động sản xuất mô phỏng, làm chậm việc chuyển cơ sở sản xuất đến CNĐPT. Nhìn chung, CNĐPT là người thua thiệt trong qúa trình này. Thêm vào đó, qúa trình tiếp nhận, sáng tạo tri thức ở CNĐPT không được hỗ trợ đầy đủ để có thể bù đắp những hậu qủa tiêu cực của việc bảo hộ SHTT.
Có thể khẳng định rằng, mức độ đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển sẽ quyết định hiệu qủa bảo hộ và sử dụng SHCN mà đặc biệt là Sáng chế. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi sự phát triển kinh tế quốc dân đạt được một trình độ nhất định. Do đó, các chính sách quốc gia nhằm thu hút đầu tư từ các nước công nghiệp vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển ở nước ta phải trở thành một chiến lược trọng tâm.
b) Ảnh hưởng đến đầu tư cho Nghiên cứu & Phát triển
Bảo hộ SHCN cũng cần phải được sử dụng để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển. CNĐPT hy vọng thông qua bảo hộ chặt chẽ SHCN sẽ:
- Nâng cao mức chi chung (toàn cầu) cho Nghiên cứu & Phát triển. Từ đó, được hưởng lợi dưới hình thức gia tăng xuất khẩu và đẩy mạnh tiếp nhận chuyển giao công nghệ do sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu đem lại.
- Đẩy mạnh, khuyến khích hơn nữa những sáng tạo, giải pháp kỹ thuật đặc biệt nhằm giải quyết những nhu cầu riêng biệt của mỗi nước.
- Tạo cơ sở căn bản để phát triển lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển của chính mình.
c) Ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty xuyên quốc gia.(CTXQG)
Các CTXQG sẽ quyết định chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp, thay cho xuất khẩu, vào một nước ĐPT khi ở đó quyền SHTT được bảo hộ đủ mạnh. Tất nhiên điều này chỉ đúng khi các điều kiện khung khác cũng được thỏa mãn. Nghĩa là chỉ có nước ĐPT nào đang triển khai tốt hoạt động Nghiên cứu & Phát triển mới có nhiều cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp của các CTXQG. Có ba tiêu chí OLI được các CTXQG sử dụng khi quyết định đầu tư trực tiếp (OLI: Ownership-Location-Internalization):
- Lợi thế sở hữu (Ownership): CTXQG phải là sở hữu chủ một sản phẩm, hay một qui trình sản xuất mà đối thủ cạnh tranh không có được. Như vậy nó mới có lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp nội địa. Sở hữu này thường dưới dạng Patent, NHHH, kỹ thuật quản lý v…v. Đây là một điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ cho một quyết định đầu tư. Lợi thế sở hữu cũng là một tiêu chí quan trọng nhất để CTXQG quyết định cho phép sản xuất theo Li xăng hay không?
- Lợi thế vùng (Location): CTXQG có thể xuất khẩu sản phẩm vào nước muốn nhận đầu tư. Vì vậy nước đó phải chứng tỏ sản xuất tại chỗ có lợi hơn. Các yếu tố quan trọng nhất là: khả năng đưa sản phẩm vào thị trường; tiền lương, chi phí vận chuyển, chi phí điều hành thấp; thuế thấp, ít trở ngại hải quan, hệ thống pháp luật rõ ràng minh bạch và ổn định. Lợi thế vùng và lợi thế sở hữu quyết định đầu tư trực tiếp hay xuất khẩu.
- Lợi thế quốc tế hóa (Internalization): sẽ quyết định hình thức hoạt động đầu tư của CTXQG, hoặc là nó sẽ tự điều khiển sản xuất từ nước ngoài, hoặc sẽ liên doanh với doanh nghiệp nội địa.
Bảo hộ SHTT tác động trực tiếp đến lợi thế sở hữu, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp hiện đại. Nó cũng ảnh hưởng đến lợi thế quốc tế hóa. Bảo hộ chặt chẽ SHTT góp phần giảm chi phí hoạt động ngoài công ty, đẩy mạnh xu thế chuyển giao công nghệ theo Li xăng và liên doanh chiến lược với các doanh nghiệp nội địa. Vì như vậy sẽ giảm nguy cơ bị bộc lộ bí mật. Đối với nhiều doanh nghiệp của CNĐPT hàng đầu, liên minh chiến lược với các CTXQG là con đường quan trọng nhất để nhận công nghệ hiện đại và giúp họ thâm nhập được vào những lĩnh vực kỹ thuật cao quan trọng.
d) Ảnh hưởng đến chuyển giao công nghệ
Bảo hộ SHTT có ảnh hưởng rất khác nhau đến từng nước ĐPT và cho từng ngành sản xuất, kinh doanh. CNĐPT đã có hoặc đang triển khai hoạt động Nghiên cứu & Phát triển riêng sẽ được hưởng lợi từ chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các công nghệ tiên tiến. Trong khi các nước chậm phát triển hơn sẽ chịu thiệt thòi do việc bảo hộ SHCN hầu như không có ảnh hưởng tích cực nào đến chuyển giao công nghệ vào các nước này.
Chúng ta có thể thấy rằng, quyền SHTT chỉ có thể đem lại lợi ích phát triển quốc gia khi những lợi ích thu được từ việc áp dụng, phổ biến trí thức- trên cơ sở hoạt động Nghiên cứu & Phát triển- bù lại được những phí tổn cho việc bảo hộ quyền. Do đó, chiến lược SHTT quốc gia gồm hai mặt cơ bản: Bảo hộ quyền (khuyến khích sáng tạo tri thức) và sử dụng quyền (phổ biến, áp dụng tri thức). Nếu như việc bảo hộ quyền nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi kinh tế của Chủ sở hữu và phải tuân theo tiêu chuẩn bảo hộ quốc tế tối thiểu của TRIPS, thì sử dụng quyền ở đây phải được hiểu là các chính sách quốc gia nhằm mục tiêu chính là xây dựng lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển bằng công cụ quyền SHTT. Đối với nước ta-một nước ĐPT trung bình- thì trọng tâm của chiến lược SHTT quốc gia phải là sử dụng quyền trên cơ sở chú ý thích đáng đến bảo hộ quyền chứ không phải lấy bảo hộ làm trọng tâm như hiện nay.
I I. Chiến lược SHTT quốc gia.
Vào năm 1999, ngân hàng thế giới WB đã đưa ra một chiến lược phát triển cho CNĐPT để giảm bới cách biệt về tri thức và sử dụng tri thức gồm 03 điểm cơ bản:
(1) Thu thập tri thức: qua việc mở rộng ra quốc tế để làm quen và thích nghi với tri thức quốc tế hiện tại song song với việc xây dựng hệ thống tri thức quốc gia.
(2) Hiểu và tiếp nhận được tri thức: thông qua đầu tư vào hệ thống giáo dục, bằng cách đó tạo ra nguồn nhân lực cần thiết để có thể tiếp nhận và sử dụng tri thức.
(3) Khai thác tri thức: qua việc đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển nâng cao khả năng sử dụng các công nghệ mới-chẳng hạn Internet- để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Quyền SHTT ảnh hưởng có tính chất quyết định đối với điểm (1) và (3). Một mặt nó tạo điều kiện cho sáng tạo tri thức thông qua hỗ trợ, khuyến khích sở hữu độc quyền và thúc đẩy qúa trình chuyển giao công nghệ nội quốc gia; mặt khác, lại đồng thời hạn chế- một cách tạm thời- khả năng khai thác tri thức, điểm (3). Chính từ nhận thức cơ bản này, mà TRIPS đã dành quyền quyết định cho các nước thành viên cân nhắc tương quan giữa điểm (1) và (3) để có chiến lược xây dựng hệ thống bảo hộ SHTT cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu phát triển của mỗi nước.
Chính lược quốc gia về SHTT vì thế phải dựa trên cơ sở cân nhắc giữa mục tiêu khuyến khích sáng tạo tri thức và mục tiêu nhanh chóng phổ biến, áp dụng tri thức cho từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tầm quan trọng của quyền SHTT đối với mỗi ngành kinh doanh, sản xuất là rất khác nhau. Nó có giá trị lớn nhất đối với các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành đòi hỏi đầu tư lớn trong Nghiên cứu & Phát triển; sản phẩm phụ thuộc vào trình độ cao của nhân viên và tương đối dễ bị ’’bắt chước’’ dễ bị tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho lạc hậu. Ví dụ: Công nghiệp hóa chất và dược phẩm, công nghiệp sản xuất hàng điện tử tiêu dùng, phát triển phần mềm máy tính.
Chiến lược vĩ mô của Nhà nước, vì vậy, phải là một chiến lược toàn diện liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như: chính sách thuế, chính sách chuyển giao công nghệ và Li xăng, chính sách nhập khẩu song song, chính sách ưu đãi đầu tư vào Nghiên cứu & Phát triển, chính sách Giáo dục-Đào tạo, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp v…v. Khi nghiên cứu xây dựng chiến lược này cần chú ý đến một số điểm trọng tâm như sau:
- Tác động hai mặt của bảo hộ SHTT: khuyến khích sáng tạo và nhanh chóng phổ biến tri thức, sử dụng thành qủa sáng tạo trong xã hội. Chiến lược sử dụng bảo hộ SHTT vì vậy phải xác định cần khuyến khích tác động nào trong từng giai đoạn phát triển kinh tế cụ thể.
- Ảnh hưởng rất khác nhau của việc bảo hộ SHTT đối với từng lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ; và lên từng ngành cụ thể trong những lĩnh vực này.
- Mục đích kinh tế cuối cùng của chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp phải là khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển của mình, góp phần nâng cao hiệu qủa và trình độ hoạt động Nghiên cứu & Phát triển quốc gia.
I I I. Chiến lược sử dụng quyền SHTT cho một số lĩnh vực quan trọng nhất
Dược phẩm
Vấn đề lớn nhất trong chính sách đối với ngành dược phẩm- cũng như công nghệ sinh học- là giải quyết tối ưu quan hệ giữa ảnh hưởng trước mắt và tác dụng lâu dài của bảo hộ SHCN. Trong ngắn hạn, bảo hộ SHCN sẽ cản trở việc đáp ứng một số nhu cầu căn bản (ví dụ: nhu cầu thuốc trị bệnh hiểm nghèo), nhưng về lâu dài nó lại là một công cụ khuyến khích sáng tạo rất quan trọng. Có 03 khía cạnh cần chú ý đặc biệt khi xây dựng chiến lược bảo hộ SHCN cho ngành dược phẩm là:
- Bảo hộ Sáng chế một cách chặt chẽ như TRIPS yêu cầu sẽ dẫn đến tăng giá thuốc trị bệnh. Do đó trước mắt sẽ gây nhiều khó khăn trong việc đảm bảo cung cấp thuốc chữa bệnh với giá chấp nhận được cho người bệnh.
- Bảo hộ Sáng chế sẽ đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật của ngành dược. Nhưng nó hầu như không ảnh hưởng được đến Nghiên cứu & Phát triển các loại thuốc đặc trị bệnh thường gặp ở nước ta, do sức mua của thị trường không đủ hấp dẫn đầu tư.
- Phải cân nhắc kỹ lưỡng chính sách khuyến khích sản xuất mô phỏng, nếu chúng ta muốn xây dựng ngành công nghiệp dược riêng. Vì ở ta chưa xuất hiện các doanh nghiệp đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh có thể tận dụng được lợi ích của bảo hộ chặt chẽ sáng chế trong dược phẩm.
Đặc điểm trong sản xuất dược phẩm là chi phí Nghiên cứu & Phát triển rất cao, trong khi chi phí sản xuất mô phỏng tương đối thấp. Vì vậy, bảo hộ Sáng chế được các CTXQG sử dụng như một công cụ hiệu qủa để nâng giá sản xuất mô phỏng và bảo đảm lợi nhuận từ vị trí độc quyền. Hiệp định TRIPS mở ra những khả năng khác nhau cho chúng ta chống lại việc tăng giá dược phẩm một cách qúa đáng như vậy: a)TRIPS không cấm kiểm soát giá dược phẩm theo cách mà các nước công nghiệp phát triển vẫn thực hiện; b) Mỗi nước có quyền quyết định cho phép nhập khẩu song song thuốc trị bệnh hay không; và c) Mặc dù các nước thành viên phải giữ đúng những điều kiện tiên quyết cho việc ban hành lệnh cưỡng bức nhượng quyền sản xuất, nhưng chúng vẫn có thể được thay thế để điều chỉnh hành vi độc quyền thị trường của chủ sở hữu quyền (CSHQ).
Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là ngành công nghiệp then chốt của tương lai. Trọng tâm của nó là kỹ thuật Gen và sinh học phân tử với dấu hiệu đặc trưng trong hoạt động là biến đổi phần tử sống và đưa chúng vào các sản phẩm mới. Cũng như các ngành kỹ thuật cao khác, công nghệ sinh học tập trung ở CNPT. Nhưng Việt nam cũng giữ một vai trò không kém phần quan trọng trong tư thế nhà cung cấp nguyên liệu, vì có nguồn cung cấp đầu vào quan trọng cho công nghệ sinh học; có nguồn dự trữ gen động thực vật có khả năng khai thác thương mại và có kinh nghiệm truyền thống đặc biệt của người dân về loại cây con nào có thể được sử dụng cho mục đích gì.
Hiệp định TRIPS củng cố vị thế của các CTXQG trong lĩnh vực Công nghệ sinh học. Qúa trình trao đổi nguồn phần tử sinh học từ CNĐPT cho các CTXQG như vậy sẽ trở nên khó khăn hơn. Lợi nhuận thu được từ việc trao đổi này sẽ hầu như không bù đắp nổi những bất lợi do bảo hộ SHCN đem lại cho CNĐPT. Chính sách sử dụng quyền SHCN trong Công nghệ sinh học phụ thuộc chủ yếu vào việc xây dựng hệ thống bảo hộ cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và đáp ứng quan hệ giữa các CTXQG trong vai trò người mua nguyên liệu và nước ta trong vai trò nhà cung cấp. Chính sách bảo hộ SHCN đối với Công nghệ sinh học cần đặc biệt chú ý đến ảnh hưởng của xu thế muốn mở rộng phạm vi nhu cầu bảo hộ của Patent. Xu thế này trong bảo hộ Sáng chế cho công nghệ gen và qui trình sản xuất Công nghệ sinh học sẽ cản trở doanh nghiệp Việt nam đặt chân vào thị trường; thậm chí có thể còn cản trở tiến bộ khoa học kỹ thuật ở nước ta. Điều rất dễ xẩy ra là việc cấp Patent cho những gen di truyền đơn lẻ chẳng hạn, sẽ cản trở phát triển sản phẩm mới. Vì các nhà nghiên cứu khác không được quyền sử dụng gen này cho các chức năng khác nhau, mặc dù CSHQ không biết các chức năng này.
Bảo hộ chặt chẽ SHCN trong lai tạo giống cây trồng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Họ sẽ không có có hội tiếp cận nguồn gen cây trồng. Điều này có thể gây ra hậu qủa tiêu cực cho kinh tế và môi trường. Ở nhiều NĐPT đang xuất hiện mâu thuẫn quyền lợi gay gắt giữa nông dân và các công ty cung cấp giống. Nhà tạo giống hưởng lợi nhiều hơn từ việc bảo hộ giống một cách chặt chẽ; ngược lại, nông dân phải chịu chi phí sản xuất cao hơn. Ngoài ra, phải tính đến nguy cơ mất các giống loài đặc trưng, phù hợp với điều kiện truyền thống ở từng nước. Do nó sẽ bị thay thế bởi các giống loài có hiệu qủa kinh tế cao hơn, nhưng theo một tiêu chuẩn thống nhất có tính toàn cầu, vùng, hay ít nhất cũng là không mang đặc tính riêng của từng quốc gia. Điều này không những làm mất đi sự phong phú chủng loại, mà về lâu dài còn ảnh hưởng xấu đến cân bằng sinh thái tự nhiên.
Theo kinh nghiệm của một số nước ĐPT, bảo hộ tốt nguồn sinh học, giống loài động thực vật là công việc cấp bách và nằm trong tầm tay mỗi nước ĐPT. Chúng ta nên kết hợp bảo hộ dưới dạng Patent và bảo hộ theo CBD (Convention on Biological Diversity). Vì là nước thành viên CBD, ta có quyền ban hành những qui định về việc khai thác các nguồn dự trữ sinh học trong tự nhiên, về phân chia lợi nhuận và về chuyển giao công nghệ.
Công nghệ phần mềm máy tính
Đối với nước ta, sử dụng và phổ biến phần mềm máy tính giữ một vai trò rất quan trọng trong phát triển đất nước. Phần mềm máy tính không chỉ là một sản phẩm, mà còn là một công cụ cho hầu hết các hoạt động kinh tế. Bảo hộ SHTT ngăn cản sao chép bất hợp pháp, làm tăng giá và vì vậy cũng cản trở phổ biến, sử dụng rộng rãi phần mềm máy tính. Nhưng bảo hộ SHTT khuyến khích phát triển phần mềm mới và vẫn tạo cơ hội thâm nhập thị trường cho các nhà sản xuất mới. Vấn đề đặt ra là: phải có một chính sách thích hợp ,sử dụng những công cụ khác, để cân đối những bất lợi do việc tăng giá phần mềm máy tính gây ra.
Thị trường thế giới về chương trình máy tính gồm chương trình căn bản và chương trình chuyên dùng. Trong khi chương trình căn bản chủ yếu do một số ít các CTXQG lớn sản xuất, thì có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các chương trình chuyên dùng. Ở đây, bên cạnh hoạt động lập trình, các dịch vụ phối thuộc cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.
Thời kỳ những năm 60 và 70, chương trình máy tính được bảo hộ dưới hình thức bí mật thương mại. Sau đó Hoa kỳ dùng quyền tác giả như một công cụ để bảo hộ nó. Điều này đem lại các lợi điểm là Chương trình máy tính sẽ dễ dàng được công nhận bảo hộ với thời gian dài và từng phần của chương trình có thể được người khác sử dụng, phát triển thành chương trình mới mà không vi phạm quyền tác giả. Ngày nay, chương trình máy tính còn có thể được bảo hộ dưới dạng Patent. Tuy nhiên, TRIPS chỉ qui định phải bảo hộ chương trình máy tính dưới dạng quyền tác giả.
Sản xuất chương trình máy tính có thể trở thành nghành công nghiệp quan trọng của tương lai ở nước ta. Nhà sản xuất chương trình của ta (phần lớn là loại nhỏ) phụ thuộc rất nhiều vào tính không phụ thuộc, có thể sử dụng riêng rẽ của các chương trình máy tính căn bản do các CTXQG sản xuất để phát triển các chương trình chuyên dùng của mình. Vì vậy, bảo hộ chặt chẽ chương trình máy tính dưới hình thức Patent sẽ gây trở ngại cho công nghiệp sản xuất chương trình máy tính ở Việt nam. Ảnh hưởng của bảo hộ SHTT đến việc sử dụng chương trình máy tính kém rõ rệt hơn, nhưng mang tính hai mặt. Một mặt, nó làm tăng chi phí tiếp cận. Nhưng mặt khác lại khuyến khích sử dụng các chương trình đồng bộ, cũng như có thể tạo thuận lợi hơn cho việc tiêu thụ chương trình của các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, hiệu ứng chung của hai ảnh hưởng này phụ thuộc vào trình độ phát triển mỗi nước. Quốc gia nào còn nhu cầu lớn về sử dụng các chương trình căn bản, thì ở đó việc sao chép chúng vẫn phục vụ cho lợi ích chung. Như vậy, CNĐPT nghèo sẽ phải chịu thiệt thòi rất lớn khi bảo hộ chặt chẽ chương trình máy tính. Do đó, khi xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất chương trình máy tính tại nước ta, nên chú ý các điểm sau đây:a) Chưa nên áp dụng các hình thức bảo hộ SHCN khác ngoài quyền tác giả như TRIPS yêu cầu; b) Có các nghiên cứu xác định nhu cầu sử dụng chương trình máy tính căn bản. Trên cơ sở đó đề ra các chính sách uyển chuyển khuyến khích hay hạn chế sao chép; c) Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực Nghiên cứu & Phát triển; d) Có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển chương trình chuyên dụng, đáp ứng nhu cầu địa phương
CHỐNG THAM NHŨNG, ĐƯỢC KHÔNG?
GS TS Nguyễn Vân Nam
http://tsnguyenvannam.wordpress.com/2011/01/08/ch%e1%bb%91ng-tham-nhung-d%c6%b0%e1%bb%a3c-khong/
Có thể, nếu…
1. Việt nam có tham nhũng không?
1.1. Chuyện quốc tế.
Tham nhũng ư? Chuyện xưa như trái đất. Ở đâu có quyền lực ở đó có thể có tham nhũng, nước nào mà chẳng có tham nhũng. Rất nhiều người sẽ nói như vậy. Cách hiểu về tham nhũng (thậm chí là bản chất tham nhũng), qui mô, „chất lượng“ và hậu quả của tham nhũng cũng rất khác nhau tùy mỗi nước. Đúng thôi.
Nhưng ngày nay, qúa trình Toàn cầu hóa đã khiến tham nhũng không còn là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia nữa. Cộng đồng quốc tế phải đặc biệt quan tâm đến việc cùng nhau tìm ra cách thức chung để giải quyết nạn tham nhũng, cũng có nghĩa là cần tìm ra những đặc trưng có giá trị phổ quát của tham nhũng.
Các nước phát triển- nơi có môi trường cạnh tranh tự do, lành mạnh- phải quan tâm xử lý cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các công ty của mình ở thị trường nước ngoài, nơi họ có thể dễ dàng hối lộ để nhận được hợp đồng. Trong vai trò nước cung cấp viện trợ phát triển và các khoản vốn đầu tư quan trọng nhất cho phát triển, các nước này ngày càng phải quan tâm đến việc sử dụng tiền của nước nhận viện trợ. Quản trị công tồi tệ gây thất thoát, sử dụng không hiệu quả số tiền này có thể gây hậu quả dây chuyền rất nghiêm trọng đến cộng đồng quốc tế (như trường hợp khủng hoảng của Hy lạp vừa qua). Cấp viện trợ, tín dụng một cách dễ dãi không cần quan tâm đến hiệu quả sử dụng cũng sẽ khiến người đóng thuế tại nước cấp viện bất bình và có thể dẫn đến giảm mạnh độ tín nhiệm vào chính phủ.
Theo Tổ chức minh bạch quốc tế TI (Transparency International) tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực được tin cậy giao phó cho lợi ích cá nhân. „Corruption is operationally defined as the misuse of entrusted power for private gain“. Dưới góc độ pháp lý rộng hơn, luật pháp của nhiều nước Châu Âu định nghĩa tham nhũng gồm 02 yếu tố cấu thành: a) Hành vi lạm dụng vị trí quyền lực, không tôn trọng các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành vi, trách nhiệm công chức và luật pháp; và b) Cho lợi ích cá nhân. Những định nghĩa như vậy chủ yếu hướng vào sự lạm dụng quyền lực công (quyền lực của Nhà nước, cơ quan công quyền).
Tuy nhiên, lạm dụng quyền lực được tin cậy giao phó không chỉ trầm trọng ở cơ quan công quyền, mà còn ngày càng phát triển trong giao dịch kinh tế, dân sự, chính trị quốc tế. Vì vậy, Hội đồng Châu Âu cùng Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra một định nghĩa rộng hơn về tham nhũng. Theo đó, tham nhũng gồm các yếu tố cấu thành sau: a) Hành vi của những người được tin cậy giao phó nhiệm vụ công hoặc tư; b) Không tôn trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình; c) Nhằm đạt được các lợi ích không chính đáng. Định nghĩa này bao trùm các lĩnh vực công, tư, bán công, chuẩn mực đạo lý của xã hội dân sự, thực tiễn lợi dụng vị trí được tin cậy trong giao dịch dân sự, cũng như tham nhũng chính trị.
Điểm đặc biệt là ở đây, người ta không nhắc đến quyền lực mà chỉ nói đến nhiệm vụ được tin cậy giao phó. Điều này phù hợp với quan điểm chung thống nhất hiện nay về nguyên tắc phân chia quyền lực trên cơ sở quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền hạn trong một Nhà nước pháp quyền. Theo đó, quyền lực được trao là để hoàn thành một nhiệm vụ xác định. (Nghĩa là phải xác định nhiệm vụ cụ thể trước khi trao quyền). Việc nhấn mạnh „ được tin cậy giao phó“ cho thấy nguyên nhân sâu xa của tham nhũng nằm ở lòng tin, ở giá trị của sự được tin cậy và cùng với nó là sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội dân sự. Ngoài ra, việc không còn giới hạn mục tiêu tham nhũng trong phạm vi „vì mục đích cá nhân“, mà mở rộng thành „ đạt được những lợi ích không chính đáng“ cũng giúp pháp luật dễ dàng thâu tóm được hầu hết các hình thức tham nhũng rất tinh vi hiện đại.
Tham nhũng là một hiện tượng đặc trưng và nổi tiếng của các nước đang phát triển (ĐPT), đặc biệt là các nước nghèo. Nhưng không phải vì thế mà người ta nhanh chóng nhất trí về nguyên nhân gây tham nhũng. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, khi tham nhũng còn được xem là chuyện nội bộ của các nước ĐPT, thì quản trị công tồi = chính phủ yếu kém (Bad Governance) vẫn được coi là nguyên nhân cơ bản gây tham nhũng. Vì vậy, để chống tham nhũng, các nước cấp viện yêu cầu các nước ĐPT xây dựng một chính phủ quản trị tốt theo tiêu chí của EU như sau:
- Trách nhiệm của chính phủ thể hiện qua sự minh bạch và kiểm soát được của các trình tự ra quyết định.
- Sự chính danh của chính phủ qua bầu cử.
- Nhà nước pháp quyền.
- Trách nhiệm vì quyền lợi cộng đồng của các định chế công.
- Tôn trọng quyền con người.
- Bảo đảm tự do ngôn luận, báo chí.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội tham gia vào quá trình cân bằng-kiểm soát quyền lực công.
Không khó khăn gì để thấy ngay rằng những yêu cầu này là phi thực tế, không thể thực hiện nổi ở các nước ĐPT, mà đặc biệt là ở các nước kém phát triển mới bước đầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. Do những đòi hỏi này là quá cao, không phù hợp khả năng và hoàn cảnh thực tế của mình, các nước ĐPT cũng không tin vào các biện pháp chống tham nhũng được các nước cấp viện đề nghị.
Sau đó, trước tình hình tham nhũng ở các nước ĐPT càng trầm trọng, dưới sức ép Tòan cầu hóa, các tổ chức quốc tế, các nước phát triển đã phải phối hợp nghiên cứu chống tham nhũng một cách thực tế hơn, bài bản hơn. Ngày nay, ngân hàng thế giới WB, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển OECD, Liên minh Châu Âu, nhận định nguyên nhân gây ra tham nhũng chủ yếu là do: a) Nghèo đói; b) Quản trị công kém; c) Tác động của các công ty nước ngoài.
Tiêu chí để xây dựng một chính phủ có khả năng quản trị tốt cũng thay đổi uyển chuyển hơn. Đó là: a) Một chính phủ có ý thức trách nhiệm cao; b) Tôn trọng các nguyên tắc dân chủ; c) Xây dựng được các điều kiện khung thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội là điều kiện cơ bản để chống đói nghèo, chống tham nhũng.
1.2. Chuyện ta.
Cứ đến mùa tựu trường, bác gác cổng trường oai hẳn lên vì có quyền phân phát hồ sơ nhập học. Với bác ấy, nhận thêm vài nghìn cho mỗi hồ sơ để tăng ngân sách gia đình mình, hẳn cũng là điều tự nhiên thôi, chẳng việc gì phải băn khoăn. Ai đã từng xếp hàng mua vé tàu tết, chắc hẳn không thể quên anh trật tự viên đầy quyền lực. Bạn có thể tự nhiên phải nhường chỗ cho vài người được anh ta xếp lên trước với những lý do đầy sức thuyết phục. Vài chục nghìn cho một lần xếp vượt chỗ là điều hiển nhiên anh trật tự viên vẫn làm. Và…không ai thấy đó là điều cần lên án cả. Xa hơn, cao hơn bác bảo vệ, anh trật tự viên, vẫn là những hành vi ấy nhưng ở mức độ „khủng“ hơn. Họ xếp chỗ nhận những dự án, hợp đồng, chia đất… hàng trăm triệu USD và thu nhập từ công việc xếp chỗ có thể tới hàng chục triệu USD, cũng là để tăng thu nhập đáp ứng nhu cầu ngày càng không thể thỏa mãn nổi của cá nhân, của gia đình, của họ hàng. Và…tất nhiên chẳng ai việc gì phải lăn tăn lương tâm khi làm điều đó vì gia đình.
Lạm dụng quyền lực là sử dụng quyền lực không đúng mục đích, không đúng chức năng, ngoài giới hạn được phép. Để có thể giữ mức sống tối thiểu; để nâng cao thu nhập đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của gia đình; để củng cố và mở rộng lợi ích của mình và bạn hữu…người ta sử dụng quyền lực. Do rất nhiều nguyên nhân, mục đích sử dụng quyền lực như thế được thừa nhận- hay chí ít cũng nhận được sự thông cảm- một cách tổng quát và rộng khắp trong xã hội, bất chấp ai là người có quyền gì và dùng nó để đạt được mục tiêu cụ thể nào. Sự thừa nhận- hay thông cảm- một cách tổng quát bất thành văn như vậy đã chính danh hóa việc sử dụng quyền lực vì mục đích cá nhân. Nghĩa là việc sử dụng quyền lực được tin cậy giao phó để phục vụ lợi ích cá nhân- đặc biệt là vì gia đình, bà con họ hàng, bạn bè- được ngầm hiểu là đúng mục đích, đúng chức năng và trong giới hạn cho phép, không phải là sự lạm quyền. Vì vậy, có thể nói, ở ta không có tham nhũng vì không có sự lạm dụng quyền lực. Nó chỉ đơn giản là kinh doanh quyền lực. Đây chính là một trở ngại rất lớn cho công cuộc chống tham nhũng.
Phải chỉ đích danh cuộc kinh doanh quyền lực này là tham nhũng. Tham nhũng ở ta, về cơ bản, cũng có những đặc trưng như tham nhũng ở các nước ĐTP, bị nghèo đói do thể chế:
(1) Cơ hội tham nhũng rất lớn; khả năng bị phát hiện, truy tố thấp; cơ hội giải quyết nội bộ rất cao.
- Quyền lực công bao trùm toàn bộ các lĩnh vực thiết yếu của đời sống cá nhân, hoạt động của xã hội. Ở những nước này, Nhà nước là người duy nhất có quyền định đoạt việc sử dụng đất đai, tài nguyên, công nhận các hình thức sở hữu tư nhân, chuẩn y mọi hình thức đầu tư. Các công ty Nhà nước độc quyền cung cấp điện, nước, khí đốt, nhu yếu phẩm, giao thông,…
- Chưa luật hóa giới hạn quyền lực và trách nhiệm cụ thể của người sử dụng quyền lực. Luật pháp thiếu các chuẩn mực luật định xác định nguyên tắc trao và xác định quyền lực cụ thể gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Quyền lực được trao vì những mục đích lý tưởng chung chung. Trách nhiệm sử dụng quyền lực vì vậy cũng chung chung. Trách nhiệm cá nhân chỉ có tính hình thức và không thể xác định rõ ràng được trong thực tế do quan hệ xã hội nhiều tầng của công chức, cán bộ Nhà nước, cán bộ đảng cầm quyền.
- Không thể truy cứu trách nhiệm cuối cùng do chưa luật hóa qui trình truy cứu trách nhiệm đến tận gốc rễ. Vì một qui trình như vậy sẽ không phù hợp với lợi ích của đa số người sử dụng quyền lực công để thủ lợi cá nhân.
- Sự chồng chéo, không minh bạch về thẩm quyền xử lý tham nhũng. Ở những nước nghèo do cơ chế, phân chia thẩm quyền xử lý tham nhũng cũng là một lĩnh vực tham nhũng béo bở. Sự chồng chéo, không minh bạch này được chủ đích tạo ra để: i) bảo vệ và củng cố quyền lực của nhóm lãnh đạo „Nhà nước trên Nhà nước“; ii) kiểm soát hoạt động tham nhũng kinh doanh quyền lực cho phù hợp với tương quan quyền lực của các nhóm lợi ích ở cấp cao nhất.
- Hệ thống pháp luật vừa thiếu vừa lỏng lẻo.
(2) Tham nhũng chủ yếu vì lợi ích kinh tế.
Khởi đầu, tham nhũng ở các nước ĐPT nghèo do thể chế chỉ nhằm lợi ích kinh tế. Tiếp đó, sự tích lũy nhanh chóng của cải từ tham nhũng, sự thâu tóm quyền lực qua cơ chế xử lý tham nhũng, … đã dẫn đến hình thành một vài nhóm có cùng lợi ích kinh tế chia nhau quyền lực quản lý đất nước. Đây là hệ quả khó tránh khỏi khi một quốc gia nghèo đói do thể chế bước vào giai đoạn phát triển kinh tế với sự giúp đỡ của các nguồn lực bên ngoài.
(3) Hình thành, phát triển các nhóm lợi ích có quyền lực lớn, cản trở mạnh mẽ công cuộc chống tham nhũng, quá trình dân chủ hóa đất nước.
Sự hình thành một vài nhóm lợi ích cùng chia sẻ quyền lực quản lý Nhà nước (Oligarchie) trong giai đoạn kinh tế phát triển sẽ trở thành trở ngại chính cho giai đoạn phát triển tiếp theo: cải tổ hệ thống chính trị-xã hội cho thích ứng với phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm chính của các nhóm lợi ích là củng cố quyền lực của mỗi nhóm và cân bằng lợi ích giữa họ. Công cụ chính của họ là phân phối lợi ích kinh tế từ việc kinh doanh quyền lực (tham nhũng) cho mỗi nhóm.
Các nhóm như vậy chỉ đồng ý thực hiện những cải cách, quyết sách nào không ảnh hưởng đến quyền lực chính trị mang lại lợi ích kinh tế của mình. Khi đó, quyết sách quốc gia thường là thỏa hiệp lợi ích giữa các nhóm này, không vì lợi ích quốc gia. Quá trình dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, chiến lược phát triển ,…vẫn được thực hiện về hình thức. Nhưng bản chất đã bị làm cho sai lệch, chỉ còn được định hướng theo các thỏa hiệp bảo đảm, bảo vệ lợi ích nhóm. Những cải cách, quyết sách nào không ảnh hưởng đến lợi ích nhóm mới được thực hiện.
(4) Không bị lên án về mặt đạo đức.
Do rất nhiều nguyên nhân- mà đặc biệt do nghèo đói kéo dài trong một thể chế dùng quyền lực để cưỡng đoạt lòng tin- việc phải tìm mọi cách để đảm bảo sự tồn tại có thể của gia đình đã không chỉ là mục đích, mà còn trở thành một biện minh vạn năng về mặt đạo lý cho việc lạm dụng quyền lực. Những tham nhũng không trực tiếp cho thấy thiệt hại vật chất nặng nề rất ít khi bị xã hội lên án.
(5) Ai cũng có thể tham nhũng.
2. Làm gì để chống được tham nhũng?
2.1. Kinh nghiệm quốc tế.
Các tổ chức quốc tế lớn như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển, Liên minh Châu Âu, Ngân Hàng Thế giới và nhiều nước cấp viện đều có công trình nghiên cứu sâu về tình trạng tham nhũng và đề xuất giải pháp chống tham nhũng ở các nước ĐPT.
Vào năm 1999, nhóm 07 nước công nghiệp phát triển nhất G-7 họp tại Köln (Đức) bàn việc cắt giảm nợ cho các nước nghèo, đã đề xuất chiến lược „ Xây dựng và thực hiện chiến lược chống nghèo đói“ ( Poverty Reduction Strategy Paper, PRSP) và quyết định lấy việc thực hiện PRSP làm điều kiện để miễn, giảm nợ cho các nước ĐPT. Ngày nay, các nguyên tắc nêu trong PRSP được công nhận là những nguyên tắc không thể bỏ qua trong cuộc chiến chống tham nhũng-nghèo đói.
PRSP nhận định, một mặt, tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính trực tiếp gây ra, làm trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo; tác động nhiều mặt đến kinh tế, chính trị, cá nhân, xã hội; và là một trong những biểu hiện đặc trưng của quản trị công tồi. (Bad Governance ). Tham nhũng gây tổn thất các nguồn lực quan trọng là một cản trở to lớn đối với công cuộc chống đói nghèo.
Mặt khác, đói nghèo cũng là một nguyên nhân căn bản gây ra tham nhũng. Chống đói nghèo tốt tạo điều kiện chống tham nhũng có hiệu quả. Kết quả chống đói nghèo, chống tham nhũng tuy phụ thuộc vào điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế và truyền thống đạo lý của mỗi nước, nhưng không thể không dựa trên một số nguyên tắc chính có tính phổ cập.
(1) Phải kết hợp một cách hữu cơ giữa chống tham nhũng với chống đói nghèo trong một chiến lược chống đói nghèo chung;
(2) Phải tuân thủ ít nhất là các nguyên tắc sau:
a) Minh bạch:
- Trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước, cơ quan công quyền
- Hành vi càng minh bạch, càng dễ kiểm soát, càng khó bị lợi dụng.
- Chiến lược PRSP cụ thể hóa, làm minh bạch các hoạt động của Nhà nước.
- Nhà nước không chỉ chịu trách nhiệm đưa các chiến lược kinh tế, chính trị ra thảo luận công khai, mà còn phải cung cấp bằng chứng đã thực hiện chúng như thế nào.
b) Truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn:
- Qui định rõ ràng, cụ thể ai, cơ quan công quyền nào chịu trách nhiệm về các biện pháp, hành vi nào.
- Có quy trình pháp lý truy cứu trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình hình thành và thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước.
- Kiểm soát và cân bằng quyền lực với sự tham gia mạnh mẽ của cơ quan lập pháp và xã hội để truy cứu đến nơi đến chốn trách nhiệm của chính phủ và cán bộ, công chức.
c) Trách nhiệm giải trình và chứng minh của chính phủ, cơ quan công quyền:
- Chính phủ có trách nhiệm giải trình công khai lý do thực hiện của bất cứ hoạt động quản lý, sử dụng quyền lực công nào; và
- Chứng minh sự hợp lý của chúng trước người dân, công luận.
d) Sự tham gia sâu rộng của người dân, tổ chức xã hội:
- Theo dõi, phê phán, tố cáo hoạt động sai trái của chính phủ, cơ quan công quyền, các định chế khác.
- Tạo cơ sở hợp lý cho qui trình hình thành quyết sách địa phương, nâng cao tính minh bạch, khả năng truy cứu trách nhiệm của quản trị công và tạo điều kiện để kiểm soát tốt hơn việc sử dụng các nguồn lực.
(Chương trình PRSP nào có kế hoạch thực hiện điểm (d) này được gọi là Full-PRSP).
- Quyền khởi kiện như một pháp nhân của Hiệp hội.
e) Nhà nước pháp quyền.
- Sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là Tòa hành chính phải có thẩm quyền xem xét, kiểm tra bất cứ hoạt động nào sử dụng quyền lực Nhà nước của chính phủ và cơ quan công quyền.
- Quyền khởi kiện bất cứ hoạt động quản lý Nhà nước nào của người dân, của Hiệp hội và tổ chức phi chính phủ.
- Sự hoàn chỉnh của hệ thống tòa án, bao gồm Tòa Hiến pháp.
2.2. Một số biện pháp chính chống tham nhũng Việt nam.
Các biện pháp chống tham nhũng cần được thực hiện đồng bộ, kết hợp chặt chẽ với nhau. Tiêu chí đánh giá kết quả chống tham nhũng cần gắn liền với kết quả chống đói nghèo.
Những biện pháp cụ thể vừa phải tuân theo các nguyên tắc chính (mục tiêu) đã được quốc tế công nhận, vừa phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của Việt nam.
Để có thể thực sự chống tham nhũng, những biện pháp sau đây là những biện pháp tối thiểu, không thể không làm:
2.2.1. Xác định, hạn chế và giới hạn rõ ràng phạm vi quyền lực công bằng và trong khuôn khổ pháp luật.
(1) Minh định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng CSVN khi được giao nhiệm vụ lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đây là việc làm cấp thiết để bảo đảm rằng: a) bất kỳ sự sử dụng quyền lực tối cao nào đối với xã hội cũng phải nằm trong khuôn khổ và được pháp luật cho phép; b) có thể truy cứu trách nhiệm-đến nơi đến chốn- của bất cứ thành viên xã hội nào (cá nhân, tổ chức) được trao quyền lực; c) có đủ các điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền thật sự; và d) đảng CSVN luôn xứng đáng là đảng lãnh đạo Hiến định duy nhất được Hiến pháp công nhận.
Trong chế độ Dân chủ của một Nhà nước pháp quyền, quyền lực bao giờ cũng phải gắn chặt không thể tách rời với trách nhiệm của người sử dụng nó trước người dân. Nguyên tắc quyền lực phải gắn chặt với trách nhiệm được quốc tế nhất trí công nhận là nguyên tắc hoạt động để phân biệt chế độ dân chủ với các chế độ khác. Một hình thái tổ chức xã hội, mà ở đó, quyền lực không gắn liền với trách nhiệm thì cũng không thể có chế độ dân chủ.
Quyền lực không thể là vô giới hạn. Quyền lực được trao để thực hiện những nhiệm vụ xác định. Người được trao quyền lực có 02 trách nhiệm chính: a) trách nhiệm sử dụng quyền lực đúng mục đích và b) trách nhiệm chịu trách nhiệm khi không hoàn thành trách nhiệm a). Không thể nói đến trách nhiệm khi không có các qui định pháp luật đánh giá, kiểm tra được mức độ hoàn thành trách nhiệm và qui định những hậu quả pháp lý cụ thể mà người sử dụng quyền lực phải chịu khi không hoàn thành trách nhiệm. Các qui định như vậy có cũng như không, nếu nó không được áp dụng cho tất cả mọi người, mọi tổ chức.
Đảng CSVN được Hiến pháp giao nhiệm vụ lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để hoàn thành nhiệm vụ này, đảng được trao cho quyền lực tối cao. Tuy Điều 4 Hiến pháp qui định mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhưng ta chưa có luật về hoạt động của đảng CSVN. Thực tế, đảng là người quyết định tất cả; quyết định của đảng là quyết định có hiệu lực cuối cùng đối với mọi hoạt động của Nhà nước. Nhưng hiện nay chưa có một cơ sở pháp lý nào cho phép Tòa án kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định của đảng. Sử dụng quyền lực tối cao mà không phải chịu trách nhiệm với những hậu quả pháp lý xác định, chính là một trong những trở ngại lớn nhất cho công cuộc phòng chống tham nhũng.
Để khắc phục sơ xuất trên, cần sớm thực hiện Điều 4 Hiến pháp mà ban hành Luật về hoạt động của đảng CSVN, nhất thể hóa đảng CSVN với chính phủ (Tổng bí thư đảng là thủ tướng) và có thể xem xét công nhận bộ chính trị là một cơ quan hiến định.
Trước mắt, nhân chuẩn bị đại hội, đảng CSVN nên bắt tay xây dựng một qui trình đảng lãnh đạo Nhà nước một cách công khai, minh bạch mà khởi đầu là:
- Công bố công khai, đầy đủ các ý kiến tranh luận, thảo luận về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, xã hội tại đại hội đảng từ cấp tỉnh, thành phố đến toàn quốc trong thời gian tiến hành đại hội.
- Ngay sau đại hội đảng toàn quốc, công bố danh sách chính thức các cán bộ đảng sẽ giữ chức vụ thủ tướng, bộ trưởng do đảng giới thiệu cho Quốc hội phê chuẩn.
(2) Công nhận quyền tư hữu đất đai.
Đại đa số các vụ tham nhũng đều liên quan đến đất đai. Chính qui định đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu với quyền định đoạt ai được sử dụng đất vì mục đích nào, đã khuyến khích và mở ra những cơ hội dễ dàng cho việc lợi dụng, lạm dụng thứ quyền lực mang lại mối lợi to lớn về kinh tế này.
Không ai muốn sống trong một xã hội, mà ở đó họ không được hưởng thành quả do lao động chính đáng của mình làm ra cả. Việc bảo đảm quyền tư hữu vì vậy phải là mục tiêu hàng đầu của xã hội. Được sở hữu một mảnh đất, một ngôi nhà làm nền tảng cho một tương lai ổn định, để an cư lạc nghiệp cũng luôn là mục tiêu ưu tiên nhất của bất cứ ai. Người ta dành dụm tiền bạc, thành quả lao động của mình, trước hết là để có thể sở hữu ngôi nhà trên mảnh đất của mình. Quyền tư hữu mà không được bảo đảm sở hữu đất đai là một quyền tư hữu què quặt và thực chất không thể là quyền tư hữu.
Quan trọng hơn, khi người ta biết rằng mảnh đất dưới ngôi nhà mà họ dành dụm cả đời mới mua được đó, vẫn có thể bị Nhà nước thu hồi vào bất cứ lúc nào- cho những mục đích do Nhà nước tự quyết định- thì họ không thể có lòng tin vào điều giản dị nhất: Công sức lao động của họ được bảo vệ, được đảm bảo. Sự mất lòng tin vào điều giản dị làm nên xã hội dân sự đó, cũng chính là nguyên nhân sâu xa khiến người ta không còn tin vào giá trị của sự được tin cậy. Và vì thế, cũng là nguyên nhân sâu xa khuyến khích tham nhũng khi được giao phó quyền lực công.
Một định nghĩa pháp lý thống nhất về quyền sở hữu với đầy đủ các quyền năng cho bất cứ chủ sở hữu nào trong nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết. Việc phân chia quyền năng sở hữu khác nhau theo các chủ thể quyền khác nhau (sở hữu nhà nước, tập thể, htx,v…v) như ta đang làm vừa gây trở ngại rất lớn cả về lý thuyết lẫn thực tiễn trong việc xây dựng một trật tự kinh tế thị trường xã hội; vừa góp phần quan trọng tạo nên các thị trường giá trị ảo khuyến khích tham nhũng.
Thị trường đất đai có vai trò hết sức đặc biệt, làm nền tảng cho hoạt động hữu hiệu của các thị trường khác trong nền kinh tế thị trường. Việc định giá đất đai giữ vai trò có tính chức năng thiết yếu trong việc bảo đảm sự minh mạch trên thị trường. Nó là một yếu tố quan trọng cho phép xác định đúng giá trị đất thế chấp vay tín dụng qua đó ảnh hưởng lớn đến hình thành giá cả của thị trường, v…v. Vì vậy, giá trị đất đai nhất thiết phải do quan hệ Cung – Cầu trên thị trường quyết định. Nhà nước giữ độc quyền quyền định đoạt (của chủ sở hữu) đối với đất đai cũng chính là giữ quyền định giá đất và cùng với nó là quyền điều khiển hoạt động của thị trường theo ý muốn chủ quan, đặc biệt là trong việc tạo các cơn sốt ảo.
Thực chất, ở ta, đây là thứ quyền lực kinh tế vô giới hạn vì: a) theo luật pháp không có một thửa đất nào là „bất khả thu hồi“ đối với Nhà nước; b) việc Nhà nước sử dụng quyền định đoạt đất đai như thế nào là không thể kiểm soát; c) việc lạm dụng quyền định đoạt đất đai vừa đem lại lợi ích kinh tế hết sức cao, vừa tạo ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài cho kẻ tham nhũng sử dụng nó. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khuyến khích, hấp dẫn tham nhũng. Công nhận quyền tư hữu đất đai sẽ loại bỏ được điều này.
Đã hội nhập kinh tế quốc tế, đã xác định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền sớm muộn gì chúng ta cũng phải công nhận quyền tư hữu đất đai. Công nhận sớm ngày nào người dân đỡ khổ vì vấn nạn tham nhũng ngày đó. Tại sao không làm?
(3) Hạn chế tối đa hoạt động kinh tế của Nhà nước.
Về cơ bản, Nhà nước không được phép hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế của Nhà nước phải là ngoại lệ và tuân theo nguyên tắc: Nhà nước chỉ hoạt động kinh tế tại nơi và chỉ khi thị trường tự do bất lực.
Chính hoạt động kinh doanh, can thiệp của Nhà nước vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như hiện nay, ngoài việc gây ra các hậu quả tiêu cực ai cũng biết, còn mở ra- gần như vô tận- các cơ hội hấp dẫn tham nhũng. Đơn giản vì Nhà nước-do đủ thứ nguyên nhân và quan hệ chồng chéo, mà đặc biệt là quan hệ giữa kết quả kinh doanh và năng lực điều hành chính phủ- không bao giờ có thể có, hay muốn có, được đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết cho việc kiểm soát toàn diện hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Vì vậy, tham nhũng trong và bằng các hoạt động kinh doanh của Nhà nước lấy trực tiếp „tiền tươi“ dễ nhất, nhiều nhất, khó kiểm soát nhất, dễ biện minh nhất, dễ thoát tội nhất. Tham nhũng trong hoạt động kinh tế của Nhà nước còn là động lực thúc đẩy tham nhũng trong các lĩnh vực khác.
Cần có qui định pháp lý phân biệt rõ ràng DNNN độc quyền với DN có vốn góp của NN.
DNNN độc quyền hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận hay là nguồn thu ngân sách, mà là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân, của xã hội. Trước mắt, cần có luật về hoạt động của DNNN độc quyền phù hợp với các đặc trưng được WTO công nhận. Quốc hội sẽ quyết định các lĩnh vực nào là thiết yếu, trọng tâm đối với đời sống người dân, xã hội mà DNNN được độc quyền.
DN có vốn góp của NN. Cần nhanh chóng xây dựng cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của DN loại này. Dứt khoát-trên cơ sở luật định- đối xử với các DN đó hoàn toàn bình đẳng như các DNTN khác, đặc biệt trong việc tiếp cận vốn, bảo lãnh vay vốn, cấp đất, giải quyết nợ nần, phá sản và cạnh tranh.
(4) Định hướng hoạt động quản lý hành chính công theo nhu cầu thực tế của người dân.
Đẩy mạnh cải tiến hệ thống quản lý hành chính công không phải theo hướng giải quyết nhanh chóng các trở ngại như ta đang làm, mà là xóa bỏ các trở ngại. Do các trở ngại này- cho đến nay- nẩy sinh chủ yếu do áp đặt suy nghĩ chủ quan phi thực tế của Nhà nước, nên nguyên tắc để xóa bỏ chúng phải là quản lý hành chính công để đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân chứ không phải đáp ứng chính sách Nhà nước nữa.
Một trong những hệ quả quan trọng của nguyên tắc này là phải tạo điều kiện cho người dân, Tổ chức phi chính phủ, Hiệp hội trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành quyết sách, kiểm soát việc thực hiện, kiểm tra kết quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước.
(5) Từng bước- phù hợp với cải cách tư pháp- tản quyền cho địa phương.
Tản quyền là xu thế chung hiện nay tại các nước phát triển. Họ cũng muốn các nước khác làm theo. Tuy nhiên, đây là điểm cần hết sức thận trọng.
Trước tiên, nên lưu ý rằng trước khi bắt đầu quá trình tản quyền mạnh cho địa phương như hiện nay, các nước phát triển đã có một hệ thống quản lý tập quyền hiệu quả với chính quyền trung ương rất mạnh. Họ tản quyền do đòi hỏi của thực tiễn cho thấy hệ thống quản lý tập quyền dù hiệu quả cũng không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển trong thời đại Toàn cầu hóa nữa.
Tiếp theo, các nước này đã có một hệ thống pháp luật rất mạnh; người dân, các Hiệp hội, Tổ chức phi chính phủ được trực tiếp tham gia mạnh mẽ vào hệ thống kiểm soát hoạt động của Nhà nước,do đó phát huy được lợi ích khi tản quyền cho địa phương.
Cuối cùng, việc tản quyền cho địa phương phải tuân thủ nguyên tắc quyền lực được trao là để hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể. Nhiệm vụ của địa phương được xác định theo các tiêu chuẩn sau:
- „Người trong cuộc“: Nhiệm vụ được trao cho chính quyền địa phương nào chịu tác động và ảnh hưởng trực tiếp của nhiệm vụ đó.
- „Năng lực hội nhập“: Nhiệm vụ được trao cho địa phương nếu không có nó, địa phương đó bị ảnh hưởng mạnh đến cơ hội phát triển, hội nhập.
- „Độ tin cậy“: Nhiệm vụ được trao cho địa phương nơi chính quyền có khả năng hiểu rõ nhất các đặc trưng của địa phương, có khả năng hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ.
- „Bình đẳng“: Nhiệm vụ được trao cho địa phương nào mà nếu không có nó thì rõ ràng địa phương đó bị đối xử không bình đẳng với các địa phương khác.
Chính quyền trung ương chỉ nhận lấy một nhiệm vụ của địa phương khi địa phương đó không thể hoàn thành hoặc hoàn thành kém hiệu quả nhiệm vụ đó. (Nguyên tắc hỗ trợ).
Hiện nay, khi hệ thống pháp luật của ta còn chưa hoàn thiện; luật hành chính còn chưa phát huy tác dụng; rất khó thi hành án đối với cơ quan công quyền; chưa đủ các điều kiện luật định để bảo đảm tính công khai, minh bạch và khả năng truy cứu trách nhiệm đến cùng; chưa đủ cơ sở cho sự tham gia kiểm tra, kiểm soát hoạt động Nhà nước của các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội, thì việc phân quyền cho địa phương sẽ đem lại nhiều bất lợi, gây thiệt hại và khuyến khích tham nhũng hơn.
Nên xem xét lại việc phân quyền quyết định cho địa phương về đất đai và dự án đầu tư, bỏ việc phân cấp quyết định theo qui mô vốn đầu tư mà nên theo các tiêu chí phân quyền nói trên. Việc tản quyền cần thực hiện từng bước một cách thận trọng tùy thuộc vào kết quả việc xây dựng được cơ sở pháp lý, các điều kiện bảo đảm tính công khai, minh bạch và có thể truy cứu trách nhiệm đối với hoạt động của chính quyền từng địa phương. Không thể làm nhanh, làm đại trà.
Riêng đối với việc cấp đất làm dự án, ta nên thành lập một Ủy ban quốc gia độc lập, mà thành viên là đại diện của các tầng lớp nhân dân, có thẩm quyền quyết định cao nhất thẩm tra dự án và giải quyết các khiếu nại liên quan đến đất đai.
2.2.2. Kiểm soát việc sử dụng quyền lực công, bảo đảm sự minh bạch, trách nhiệm giải trình, chứng minh, và khả năng truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn:
(1) Mở rộng chức năng của Quốc hội như một cơ quan giám sát và kiểm soát hoạt động chống tham nhũng:
- Tăng cường một cách có hệ thống khả năng kiểm soát và giám sát của quốc hội, đặc biệt là về ngân sách hàng năm. Quốc hội cần thực hiện luật ngân sách hàng năm. Quyết định phân bố ngân sách hàng năm của quốc hội nên được ban hành như một đạo luật ngân sách mà chính phủ phải tuân thủ. Việc bội chi của chính phủ phải được coi như một ngoại lệ cần được chính phủ giải trình, chứng minh sự hợp lý trước khi được Quốc hội quyết định chấp nhận.
- Thành lập trung tâm lưu trữ, phân tích và đánh giá số liệu, thông tin của Quốc hội liên quan đến ngân sách, các dự án, chương trình mua sắm công, v…v sao cho nó trở thành trung tâm lưu trữ, phân tích đánh giá thông tin đầy đủ nhất, có hệ thống và đáng tin cậy nhất trong các lĩnh vực đó.
- Tạo điều kiện để công dân, các tổ chức phi chính phủ, báo chí, dễ dàng tiếp cận với các thông tin, phân tích của Trung tâm lưu trữ của Quốc hội.
(2) Đảm bảo các cơ sở pháp lý cho sự minh bạch như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ của nhân chứng, của người tố giác tham nhũng…
(3) Cải cách hệ thống tài chính công.
(4) Cải cách hệ thống hành chính công.
- Thay đổi căn bản về nhận thức: hành chính công không phải là để quản lý mà để phục vụ nhu cầu của người dân, của xã hội.
- Luật hóa và công khai tiêu chuẩn bổ nhiệm, qui trình bổ nhiệm cán bộ, công chức Nhà nước, cán bộ đảng các cấp thống nhất trong cả nước.
- Thành lập Cục thi tuyển công chức quốc gia chịu trách nhiệm mở các cuộc thi tuyển công chức cho các cơ quan Nhà nước. Ban hành tiểu chuẩn tuyển dụng và thi tuyển công chức thống nhất chung trong cả nước.
- Luật hóa tiêu chí xác định sự hợp pháp của một hoạt động của cơ quan công quyền. (Mục tiêu chính danh, Thích hợp để đạt mục tiêu, Cần thiết, Gây ít thiệt hại nhất.).
- Ban hành luật đãi ngộ đối với công chức, trong đó không nên đặt nặng việc đảm bảo tiền lương cao, mà tập trung xây dựng một chế độ đãi ngộ ưu tiên ngoài lương ngắn liền với tinh thần trách nhiệm, hiệu quả làm việc, thời gian làm việc của công chức. (nên tham khảo chế độ đãi ngộ công chức của Nhật và Đức).
(5) Truy cứu trách nhiệm.
- Nâng cao khả năng truy cứu trách nhiệm qua việc tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ cơ quan công quyền và hệ thống kiểm soát của xã hội, đặc biệt là vai trò của báo chí, bằng các đạo luật thích hợp.
- Cải cách hệ thống hành chính công. Không thể nói đến truy cứu trách nhiệm của Nhà nước, của công chức, nếu chỉ cho phép người dân kiểm soát và nếu cần thì khởi kiện yêu cầu Tòa hành chính kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của một vài hoạt động quản lý hành chính như hiện nay. Cần thực hiện nghiêm túc một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là toàn bộ hoạt động của Nhà nước phải được đặt dưới sự kiểm soát của người dân, dưới sự kiểm tra của Tòa án. Vì vậy một trong những điều kiện bảo đảm cải cách hành chính thành công là cho phép và bảo đảm cho người dân quyền khởi kiện bất cứ hoạt động quản lý hành chính nào.
- Nêu cao trách nhiệm tự ràng buộc trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, công chức-kể cả ở cấp cao nhất- vào việc đấu tranh chống tham nhũng, lấy điều này làm một trong những điều kiện để được hưởng chế độ đãi ngộ cao.
- Công khai tài sản. Việc này phải được luật hóa và thực hiện một cách công khai, nghiêm túc, đến nơi đến chốn. Luật công khai tài sản nên có qui định tất cả các tài sản của công chức mà không được khai báo sẽ không được công nhận là tài sản của người đó nữa.
2.2.3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- Công nhận quyền tư hữu đất đai.
- Xây dựng hệ thống Tòa án độc lập, hoàn chỉnh bao gồm cả Tòa Hiến pháp.
- Cho phép khởi kiện mọi hành vi, hoạt động quản lý Nhà nước.
- Sửa đổi bổ sung Luật Cạnh tranh: chiếm lợi thế cạnh tranh bằng hành vi vi phạm pháp luật là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Sửa đổi, bổ sung luật hình sự, luật công chức, sao cho rủi ro khi tham nhũng là rất lớn và lợi ích kinh tế của tham nhũng nhỏ hơn rất nhiều so với cái giá phải trả khi bị trừng trị.
- Tạo điều kiện để người nghèo dễ dàng bảo vệ quyền lợi của mình bằng con đường Tòa án.
2.2.4. Kiểm soát và cân bằng quyền lực Nhà nước với sự tham gia tích cực của các tác nhân phi chính phủ. Nâng cao ý thức công dân, tạo điều kiện cho xã hội dân sự kiểm soát hoạt động của cơ quan công quyền.
- Ý thức được tham nhũng là vô đạo đức, đáng bị lên án. Đây là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm chống tham nhũng có hiệu quả. Nhưng như đã phân tích ở trên, hiện nay nó lại là một trong những trở ngại lớn nhất cho cuộc chiến chống tham nhũng ở ta. Vai trò của người dân, của các Hiệp hội, tổ chức phi chính phủ giữ một vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng ý thức về chống tham nhũng. Cần tạo điều kiện luật định tối đa (theo nghĩa nếu chính quyền địa phương không tạo điều kiện thì sẽ bị kiện ra Tòa) cho các nhân tố này. Đối với các tổ chức quần chúng của Nhà nước như Mặt trận TQ, Đoàn thanh niên,… kết quả tuyên truyền, xây dựng ý thức về chống tham nhũng cho người dân nên là tiêu chí đánh giá hoạt động.
- Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin không hạn chế.
- Kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan chuyên trách chống tham nhũng với các tổ chức phi chính phủ, với cá nhân. Đặc biệt cần có qui định pháp lý rõ ràng về trình tự cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc tham nhũng giữa các cơ quan chống tham nhũng- đặc biệc là Trung tâm lữu trữ của Quốc hội- với người dân và tổ chức của họ.
2.2.5. Chống tham nhũng phải là một phần quan trọng trong chiến lược chống đói nghèo.
- Tham nhũng vừa là nguyên nhân gây nghèo đói, vừa ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề đến người nghèo.
- Các biện pháp phòng chống tham nhũng cần kết hợp chặt chẽ với các biện pháp xóa đói giảm nghèo.
2.2.6. Đối thoại, kết hợp chặt chẽ với cơ quan cung cấp viện trợ của nước ngoài.
- Ký kết các hiệp định song phương đa phương với các nước cấp viện, trong đó qui định cụ thể việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế mới cho việc phòng chống và trừng phạt tham nhũng. Đặc biệt là các qui định về cạnh tranh quốc tế, chống hối lộ cán bộ, công chức nước ngoài…
- Tạo điều kiện ràng buộc nước cấp viện cùng chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn của họ tại Việt nam.
- Ràng buộc nước cấp viện vào trách nhiệm bảo đảm không dành ưu đãi cho các công ty của nước cấp viện.
- Gia nhập các hiệp định quốc tế chống tham nhũng, chống đói nghèo.
Chống tham nhũng ở Việt nam là một cuộc chiến sinh tử đòi hỏi: a) cải tổ một cách cơ bản hệ thống xã hội-chính trị theo các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền dân chủ, xã hội công dân; b) những nỗ lực thật sự của cả xã hội để quay về với hệ giá trị đạo lý truyền thống; và c) một hệ thống tòa án độc lập. Một vài biện pháp đề nghị trên đây có thể đặt những nền tảng ban đầu bảo đảm thắng lợi cho cuộc chiến này, ít nhất chúng cũng có thể hạn chế tham nhũng ở mức độ thấy được một cách rõ ràng. Tuy nhiên, để đưa tham nhũng trở về thành hiện tượng ngoại lệ bất thường trong đời sống, cần phải xây dựng một Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
[i] Gần đây, Bộ Hợp tác và Phát triển của CHLB Đức đã công bố một nghiên cứu về tình hình chống tham nhũng-nghèo đói trên cơ sở PRSP ở 54 nước ĐPT (trong đó có Việt nam). Công trình nghiên cứu này cũng chỉ ra một số sai lầm thường gặp của các nước ĐPT như sau:
- Cho rằng tham nhũng không phải nguyên nhân gây đói nghèo, không kết hợp phòng chống tham nhũng và chống đói nghèo trong một chiến lược thống nhất chung.
Thật ngạc nhiên khi đa số trong 54 nước ĐPT được nghiên cứu không cho rằng tham nhũng là nguyên nhân gây đói nghèo và vì vậy chỉ nhắc qua về chống tham nhũng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo. Việt nam nằm trong nhóm đa số này. Trong 54 nước ĐPT nói trên, chỉ có 09 nước đưa chiến lược phòng chống tham nhũng vào chiến lược chống đói nghèo.
- Không chú trọng tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tác nhân phi chính phủ tham gia vào quá trình chống tham nhũng và xóa đói giảm nghèo.
- Không cải tiến hệ thống quản lý tài chính công.
- Cải cách hành chính rất chậm do chưa xác định được mục tiêu cụ thể.
- Trì hoãn cải cách tư pháp.
- Không có các biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược đã nêu
- Cho rằng tham nhũng không phải nguyên nhân gây đói nghèo, không kết hợp phòng chống tham nhũng và chống đói nghèo trong một chiến lược thống nhất chung.
Thật ngạc nhiên khi đa số trong 54 nước ĐPT được nghiên cứu không cho rằng tham nhũng là nguyên nhân gây đói nghèo và vì vậy chỉ nhắc qua về chống tham nhũng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo. Việt nam nằm trong nhóm đa số này. Trong 54 nước ĐPT nói trên, chỉ có 09 nước đưa chiến lược phòng chống tham nhũng vào chiến lược chống đói nghèo.
- Không chú trọng tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tác nhân phi chính phủ tham gia vào quá trình chống tham nhũng và xóa đói giảm nghèo.
- Không cải tiến hệ thống quản lý tài chính công.
- Cải cách hành chính rất chậm do chưa xác định được mục tiêu cụ thể.
- Trì hoãn cải cách tư pháp.
- Không có các biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược đã nêu
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)