Powered By Blogger

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

ĐHQG Hà Nội: 8 năm nữa, có lọt top "200" (II)?



...Có thể nói rằng thời gian 8 năm là không đủ để ĐHQGHN được xếp hạng "top 200" hay "top 500" trên thế giới.
Chính phủ có quyết định đến năm 2020 sẽ xây dựng (hay giúp?) 5 đại học đạt "trình độ quốc tế". Chưa biết 5 ĐH nào, nhưng trong đó chắc sẽ có ĐHQG Hà Nội, và ĐHQG TPHCM, vì đây là 2 ĐH được xem là hàng đầu ở Việt Nam.
Trong khi đó, ĐH Chulalongkorn của Thái Lan đã được xếp hạng "top 200" trên thế giới. Tiếp theo bài I, bài này sẽ so sánh vài số liệu giữa ĐHQGHN và Chulalongkorn để thấy tiềm năng đẳng cấp quốc tế của ĐH Việt Nam như thế nào.
Tại sao lại là ĐH Chulalongkorn? Vì đây là ĐH hàng đầu của Thái Lan. Trên trang web chính thức của trường, Chulalongkorn tự hào tuyên bố: Thailand's No.1 University.
Năm 2009, ĐH Chulalongkorn được Tạp chí Times Higher Education - Quacquarelli Symonds (THES-QS) World University Rankings xếp vào hạng 138 trên thế giới. Năm 2008, trường này được xếp hạng 166. Như vậy, có thể nói rằng Chulalongkorn là một ĐH "đẳng cấp quốc tế", hay "đẳng cấp thế giới", hay "world class university".
Tại sao lại so sánh với ĐHQGHN? Vì ĐHQGHN cũng tự hào là ĐH số 1 của Việt Nam. Có thể nói, so với Chulalongkorn, ĐHQGHN có lịch sử lâu đời hơn. ĐH Chulalongkorn thành lập năm 1917, còn ĐHQGHN xuất thân từ ĐH Đông Dương do Pháp thành lập từ 1906.
ĐHQG Hà Nội. Ảnh: vnu.edu.vn
Tuy không hoặc chưa tuyên bố trên website của trường là "số 1 của Việt Nam", nhưng tôi nghĩ đứng trên phương diện nghiên cứu khoa học, ĐHQGHN hoàn toàn có lí do để viết như thế. ĐHQGHN hiện chưa có tên tuổi gì đáng kể trên trường quốc tế, chưa được ai xếp hạng (hay có xếp hạng thì cũng còn quá thấp). Tuy nhiên, ĐHQGHN có tham vọng trở thành ĐH đẳng cấp quốc tế. Vậy, chúng ta thử so sánh 2 ĐH này qua một số chỉ tiêu cơ bản.
Bảng sau đây trình bày một số dữ liệu cơ bản của 2 trường.
Qui mô
Rất khó so sánh về tổ chức giữa 2 trường vì khác hệ thống, nhưng một vài số liệu cụ thể có lẽ cũng cho ta vài ý niệm. ĐH Chulalongkorn có 42 phân khoa, bộ môn, và viện/trường trực thuộc.
ĐHQGHN có khác ở chỗ cơ cấu "ĐH trong ĐH". Theo thông tin từ trang web của trường, ĐHQGHN có 6 trường ĐH thành viên, 4 viện nghiên cứu, 5 phân khoa, và 22 trung tâm đào tạo.
Về số sinh viên, ĐHQGHN có số sinh viên cao hơn Chulalongkorn (44 ngàn so với 40 ngàn). Tuy nhiên, cơ cấu thành phần sinh viên thì khác nhau khá lớn giữa 2 ĐH. Khoảng 14% sinh viên của ĐHQGHN là hậu cử nhân (cao học và tiến sĩ); con số này ở Chulalongkorn là 37% (Bảng 1).
Bảng 1: So sánh vài chỉ số chính của ĐHQG Hà Nội (VNU-HN và ĐH Chulalongkorn)

Chulalongkorn VNU Hanoi
Tổng số sinh viên năm 2010 40047 44061
Sinh viên cấp cử nhân 25225 37674
Sinh viên cấp cao học và tiến sĩ 14822 6387



Tổng số nhân viên (2010) 2735 (a) 3426
Trong đó: người nước ngoài 491 ?
Ghi chú: (a) Con số này là "faculty members", có lẽ chỉ tính những người giảng dạy và nghiên cứu, không tương đương với con số 3426 của ĐHQGHN là tổng số công nhân viên, kể cả giáo sư giảng dạy và nhà khoa học.
Tuy nhiên, số giảng viên và nhà nghiên cứu của Chulalongkorn có vẻ cao hơn ĐHQGHN. Tổng số "cán bộ công nhân viên" của ĐHQGHN là 3426 người (số liệu 2010); trong đó số cán bộ làm nghiên cứu khoa học và giảng dạy là 49.4% (tức 1692 người). Trong khi đó, số nhân viên giảng dạy và nghiên cứu của Chula là 2735 người.
Số giáo sư và nhà nghiên cứu người nước ngoài cũng là một chỉ tiêu quan trọng cho một ĐH đẳng cấp quốc tế. Theo thống kê chính thức, trong số 2735 faculty staff của Chulalongkorn, có 491 người (18%) là người nước ngoài. Không rõ con số này của ĐHQGHN là bao nhiêu, nhưng có lẽ không nhiều.
Năng suất khoa học
Số lượng ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san khoa học trong danh mục ISI của 2 ĐH được trình bày trong biểu đồ dưới đây. Trong thời gian 12 năm (2000 đến 2011), Chulalongkorn công bố 8187 bài báo khoa học, cao gấp 11 lần so với con số ước tính cho ĐHQGHN (~700 bài).
Biểu đồ: Số ấn phẩm khoa học (ISI) của ĐH Chulalongkorn và ĐHQGHN 2002-2011
Trong năm 2010, tổng số bài báo khoa học từ ĐHQGHN là 101 bài (chỉ tính những bài trên các tập san ISI). Trong cùng thời gian, số bài báo của Chulalongkorn và Mahidol là 1042 bài, cao gấp 10 lần so với ĐHQGHN.
Nếu với tỉ lệ tăng trưởng như hiện nay (20%/năm), đến năm 2020 số ấn phẩm khoa học của ĐHQGHN có thể chỉ khoảng 620 bài (tức chỉ bằng con số ấn phẩm của Chulalongkorn vào năm 2005).
Về năng suất cá nhân, tính trung bình 16 nhân viên giảng dạy và nghiên cứu của ĐHQGHN cho ra 1 bài báo khoa học (mỗi năm). Con số này của Chulalongkorn là 2.6. Năng suất khoa học của ĐHQGHN còn quá thấp so với Chula.
Bảng 2 dưới đây xin được so sánh vài chỉ số về chất lượng nghiên cứu khoa học giữa 2 trường. Tính trung bình, chỉ số trích dẫn trung bình của ĐHQGHN là 4.3, thấp hơn khoảng 37% so với Chulalongkorn (6.8). Ngoài ra, chỉ số H của ĐHQGHN chỉ 25, rất thấp so với chỉ số H 66 của Chulalongkorn.
Bảng 2: Phân tích chất lượng ấn phẩm khoa học 2002-2011

Chulalongkorn VNUHN
Tổng số bài báo 7218 738
Tổng số trích dẫn 56215 3522
Tổng số trích dẫn trừ cho tự trích dẫn 49145 3209
% tự trích dẫn 13% 10%
Chỉ số trích dẫn trung bình 6.8 4.3
Chỉ số H 66 25
Lĩnh vực nghiên cứu
Bảng 3 dưới đây trình bày 15 lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của Chulalongkorn và ĐHQGHN (xếp hạng theo số ấn phẩm khoa học). Nhìn chung, Chulalongkorn có thế mạnh về các lĩnh vực khoa học ứng dụng và công nghệ cao. Còn ĐHQGHN tập trung vào các lĩnh vực lí thuyết như toán và vật lí.
Hai ngành mạnh hàng đầu của Chulalongkorn là hoá học và kĩ thuật (engineering), còn 2 ngành hàng đầu của ĐHQGHN là vật lí và toán. Ngành vật lí đứng hạng 9 trong các lĩnh vực nghiên cứu của Chulalongkorn, nhưng số bài báo về vật lí của Chulalongkorn cũng hơn số bài báo về vật lí (hạng 1) của ĐHQGHN.
Bảng 3: 15 lĩnh vực nghiên cứu chính của ĐH Chulalongkorn và ĐHQGHN
Chulalongkorn VNUHN
Lĩnh vực Số bài báo Lĩnh vực Số bài báo
Hoá học 1319 Vật lí 234
Kĩ thuật 1060 Toán 175
KH vật liệu 574 KH vật liệu 124
KH Polymer 477 Hoá học 98
Dược học 430 Kĩ thuật 50
Thú y 423 Môi sinh 37
Sinh hoá và sinh học phân tử 421 Dược học 31
Vật lí 360 KH máy tính 25
Môi sinh 293 Công nghệ khác 20
Công nghệ sinh học 274 Vận trù học và quản lí 19
Miễn dịch học 271 Thực vật học 17
Thử nghiệm lâm sàng 243 Sinh hoá và sinh học phân tử 16
Vi sinh học 229 Optics 16
Bệnh truyền nhiễm 216 Công nghệ sinh học 15
Năng lượng 193 Thực phẩm 12
Nói tóm lại, những so sánh trên cho thấy tuy qui mô của 2 trường ĐHQGHN và Chulalongkorn tương đương nhau, nhưng Chulalongkorn đã vượt xa ĐHQGHN ít nhất là 15 năm.
Số bài báo khoa học của ĐHQGHN chỉ bằng 1/10 của Chulalongkorn. Theo bảng xếp hạng ĐH của THES-QS (pdf file), năm 2011, ĐH Chulalongkorn được xếp hạng 171 trên thế giới.
Dĩ nhiên, ĐHQGHN chưa có vị trí trong bảng này. Với thực trạng như trên và dự báo tương lai, có thể nói rằng thời gian 8 năm là không đủ để ĐHQGHN được xếp hạng "top 200" hay "top 500" trên thế giới.
Nhưng câu hỏi là: Có thực sự cần đặt mục tiêu để chỉ có một cái tên trong danh sách "top 200" hay "top 500" hay không? Theo tôi thì không. Mục tiêu chính hiện nay là xây dựng được một nội lực hay critical massmomemtum cho nghiên cứu khoa học, tạo môi trường tự do học thuật, và đầu tư vào cơ sở vật chất.
Chỉ khi nào có những yếu tố cơ bản đó, ĐHQG hãy bàn đến chuyện "đẳng cấp quốc tế".
Nguồn: Blog Nguyễn Văn Tuấn. Tuần Việt Nam biên tập và đặt tit bài

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét