Powered By Blogger

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Phân tích dự án Văn Giang

(Tamnhin.net) - Chi phí, doanh thu và lãi cho người đầu tư ở Văn Giang

Dựa vào bài báo "Văn Giang, Lịch sử một cuộc cưỡng chế", có thể tính và đưa đến các kết luận sau:

- Đây là dự án nhà nước đổi đất lấy đường, nhưng đất này lại của nông dân, không phải của nhà nước.

- Dự án tước hữu đất, đền bù với giá cao nhất là 135,000 đồng/m2,vào giai đoạn cuối cùng cho những người không chịu chấp hành lệnh tướchữu. Giá đền bù lúc đầu chỉ có 10,000 đồng/m2. Như thế tổng chi phí đềnbù cho dân ở mức cao nhất cũng chỉ là 37 triệu USD (Coi bảng 2). Nhưvậy với giá ban đầu mà nhiều người phải nhận chỉ tốn dự án dưới 3.7triệu USD. Dù là 37 triệu hay 3.7 triệu, số tiền này so sánh với lãi làdự án đem về là 1600 triệu USD như muối bỏ biển.

- Để đổi lại, dự án lấy 55ha xây 14 km đường. Nếu tính theo chi phíxây dựng cao tốc ở Mỹ là 8 triệu/km, tổng chi phí xây dựng đường là 112triệu USD.

- Giả thiết chỉ có ½ đất được xây dựng nhà để bán (250ha), chi phíxây dựng cao nhất là 6 triệu VND/m2, và đem bán với giá 20 triệu VND/m2,tổng doanh thu sẽ là 2500 triệu USD và tổng chi phí xây dựng là 750triệu USD.

- Như vậy, tổng chi phí của dự án là 900 triệu USD, tổng doanh thu là 2,500 triệu USD. Dự án có lãi 1,600 triệu USD.

- Còn một điều cuối cùng chưa tính đến, là theo bài báo, đối với đấtbị lấy 360m2 (1 sào bắc bộ) sau này sẽ được giao lại 10m2 dịch vụ. Nhưvậy tỷ lệ trao đổi là 3% doanh thu, tức là 69 triệu (cứ giả dụ chi phíxây dựng giống nhau) và giả thiết rằng người dân không phải trả gì đểđược 10m2 này.

- Tổng cộng ở mức cao nhất, người nông dân được trả 37 triệu USD đềnbù và 69 triệu đất dịch vụ, tổng cộng là 106 triệu USD so với lãi củadự án là 1500 triệu. Nói thế nhưng may ra người nông dân được ½ của 106triệu và lãi của dự án còn cao hơn nhiều nếu họ xây nhiều hơn để kiếmlợi.

- Nói tóm lại, ai cũng có thể đặt câu hỏi là lý do gì mà cả hệ thốngchính quyền và công an đem uy tín của mình nhằm bảo đảm cho thiểu số tưbản được hưởng lợi nhuận như thế? Chỉ vì 14 km đường?
Bảng 1: thông số cơ bản của dự án

Diện tích dự án  (hectare)
550
Diện tích làm đường (hectare)
55
Chiều dài đường (km)
14
Giả thiết diện tích xây dựng nhà (hectare)
250
1hectare (=m2)
10,000
1 USD (=VND)
20,000

Bảng 2: doanh thu, chi phí và lãi của dự án ECOPark


Chi phí đền bù
Chi phí xây dựng (250 hectare)
Chi phí xây dựng đường cao tốc
Doanh thu
Lãi
Bồi thường ở mức cao nhất (VND/m2)
135,000
6,000,000



Doanh thu ở mức thấp nhất (VND/m2)



20,000,000

Phí xây dựng đường ở Mỹ - Triệu USD/km

8


Tổng (tỷ đồng)
743
                    15,000

         50,000

Tổng (triệu USD)
37
                          750
112
           2,500
        1,601
TS Vũ Quang Viêt 
 

Ý kiến của bạn
noi gi dây
qua ro rang, ts VQViêt là nguoi rât uy tin ! Cam on bao da dang bài gia tri
thi ut

"Chạy chức, chạy quyền" vì " tiền " nên tham nhũng ?

(Tamnhin.net)- Qua công bố chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011.Một kết quả nghiên cứu của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ta thấy tham nhũng đều có địa điển ở chữ "công quyền" và xuất phát điểm với từ "chạy chức, chạy quyền"?


Với bản công bố này nhận thấy "có một thực trạng đáng buồn và báo động là mỗi người dân nhìn thấy nạn tham nhũng nó đi vào từng khe, kẽ nhỏ nhất của cuộc sống và người dân buộc chấp nhận như một thứ bệnh dịch và họ trở nên mẫn cảm với hiện tượng này?
Qua tỷ lệ khảo sát và thu thập ý kiến người dân tại các tỉnh thành cho thấy, nạn tham nhũng đã và đang trở thành phổ biến ở tất cả các địa phương. Rõ ràng đây là vấn đề xã hội. 
Đảo mắt nhìn quanh ta có thể liệt kê vô số hành vi tham nhũng, từ việc bôi trơn trong mọi quan hệ công việc, khám bệnh, thủ tục hành chính, giấy tờ, học hành của con trẻ đều có  phong bì lót tay để mua chỗ mua bằng cấp, học vị, học hàm, danh hiệu, phiếu bầu; chạy chức, chạy quyền và nhiều kiểu “chạy” khác để có dự án, có kinh phí, chỗ làm, hạ tuổi, được giữ ghế, chạy án .... chạy tội và cả chuyện chạy được mang danh hộ nghèo  “chạy nghèo”!...Tất cả là cuộc thi "chạy" để nạn tham nhũng cứ hoành hành.
Có lẽ nó phát triển rất thiên nhiên theo quy luật thị trường có cầu thì ắt có cung và ngược lại vì trong cuộc  sống ai mà không có nhu  cầu gì ? vì vậy để đạt được nhu cầu ấy người ta đều phải bôi trơn cả. Bôi trơn, phong bì lót tay đã trở thành thói quen, tập quán mọi việc cần có thứ  "bôi trơn" vì nếu không bôi trơn sẽ trở thành “kém cỏi ” hoặc là sẽ ít nhiều gặp khó khăn vì thế họ cứ cam chịu mọi chi phí bôi trơn vô điều kiện! Do đâu? Vì sao để dẫn đến tình trạng này có thể nói là do cơ chế và chính sách hay không? Chúng ta không hoàn toàn khẳng định là không phải?
Nhưng cũng không thể phủ nhận điều này vì hiện nay với cơ chế, chính sách quản lý nhà nước như thế này là ta không đạt được mục tiêu để phát triển kinh tế xã hội văn minh hiện đại mà điều cần thiết nhất của một chế độ xã hội ổn định và phát triển là phải có một  tổ chức, bộ máy công quyền vững mạnh, trong sạch, như Bác nói phải (chí công vô tư)  do vậy để đẩy lùi nạn tham nhũng trước hết hãy làm tốt khâu “tổ chức cán bộ từ Trung Ương đến địa phương (từ cán bộ cấp cao đến cấp cơ sở)  phải tuyển chọn theo đúng tiêu chuẩn tiêu chí về phẩm chất đạo đức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn và chuyên nghiệp do vây trước tiên cần nghiêm trị tệ “đút lót để mua chức”. Chạy chức, chạy quyền? vì nạn tham nhũng có từ hai chữ “quyền và tiền “ nếu có tiền để mua được quyền thì ắt có quyền sẽ kiếm được tiền ...? Còn ngược lại thì sẽ không có gì ?
Vì tính chất tinh vi của vấn nạn tham nhũng ,hiện nay nó đã nan tỏa sang cả khái niệm kinh doanh thuần túy như “kinh doanh bây giờ không phải là có tiền và có năng lực, kinh nghiệm mà có thành công mà phải có “quan hệ“ hay nói cách khác là phải có“quyền” gián tiếp hay trực tiếp đều có thành công thế là người làm kinh tế bây giờ  họ không lo làm thực ,nghiêm túc và kinh doanh theo cơ chế cạnh tranh  lành mạnh mà họ cứ sử dụng biện pháp hiệu quả là trò “chạy“ ví như chạy dự án, chạy thầu, chạy nguồn vốn,.... Hơn thế nữa nếu khi làm hư hại ảnh hưởng đến xã hội và nền kinh tế thì họ lại chạy án .... có lẽ là xuất phát điểm đều bắt đầu từ hai chữ: chạy quyền” ... rồi đến “kiếm tiền“...chạy tiền, chạy án ... thế là nạn tham nhũng bủa vây thành chu trình khép kín từ A- Z chỗ nào cũng chạy nơi nào cũng chạy và nơi nào. vị trí nào cũng tham rồi vị trí nào cũng sai lầm và khuyết điểm nhẹ thì khiển trách nặng thì tù tội .... như vậy xã hội làm gì còn kỷ cương.
Có thể nghĩ rằng thực tại nếu có kẻ “chạy” được một vị trí cao, thì chắc chắn ở bên dưới sẽ hình thành ngay những đường dây “noi gương” và lây lan rất nhanh như một thứ bệnh dịch. Và kẻ mua chức nhỏ đút lót cho kẻ mua chức to, kẻ trước kia đi đút lót nay trở thành người ban phát khi có quyền .và một cơ chế kín được hình thành một cách rất tự nhiên. Đấy là một sự ràng buộc ngầm theo hệ thống dọc và ngang rất vững chắc, hiệu quả, rất khó phát hiện, mà nếu có phát hiện cũng không dễ gì xử lý được. Tệ nạn “đút lót để mua chức” sẽ làm băng hoại bộ máy công quyền và làm phát sinh nhiều tệ nạn đút lót  khác.
Vì điều đầu tiên gây nên bệnh mua chức là do chính nền hành chính với nhiều cơ chế thiếu minh bạch, chồng chéo chức năng thẩm quyền,trách nhiệm tập thể và lợi ích cá nhân không rõ ràng, công chức thiếu phẩmchất... là một trong nhiều nguyên nhân, nếu không nói là chủ yếu, đưa đến nạn nhũng nhiễu, “làm khó để ló ra tiền”.
Mặc dù ta cho ra đời luật  Phòng chống tham nhũng nêu rõ  điều 28 là “công khai minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”. Khi tham nhũng đã lây lan thành tham nhũng ở mọi khâu, trên diện rộng, Khi ấy người lương thiện mới đều đồng lòng chống. Mà sẽ chống ai? Ai chống khi môi trường gây tham nhũng lại là điều hành chống tham nhũng (vì vậy ta chống ta ) thì làm sao chống được “vì vô hình chung cơ chế chính sách đã tạo dựng cho chính chúng ta phải chiến đấu với một loại kẻ thù lớn nhất của chúng ta như lời Phật dạy “kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình“ nếu ta thắng được chính ta thì mới thắng tất cả như vậy luật  “Phòng và chống tham nhũng của chúng ta “ đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng củac ơ chế chính sách và tổ chức hành chính là giao cho ta chống lại ta khó quá làm sao làm được vì hệ thống tổ chức cán bộ có phải một cái ta đâu ? Nhưng nếu lựa chọn cái chống đầu tiên là chống chạy chức, chạy quyền thì có thể giảm nhiều gánh nặng cho các loại chống tiếp theo?  Tuy nhiên làm thế nào để “không thể” tham nhũng lại là một bài toán khó.
Xuất phát từ vấn đề “quyền và tiền“ do vậy  địa chỉ của tham nhũng, không đâu khác là ở các cơ quan công quyền, ở các quan chức từ lớn đến nhỏ, bất kể ai nếu không ngay ngắn đều có thể trở thành kẻ tham nhũng. Một anh bảo vệ cơ quan, cấp bậc thấp nhất trong thang bậc hành chính, cũng có thể làm khó để vòi vĩnh những ai có nhu cầu vào cửa công quyền. Một nhân viên tiếp nhận hồ sơ bắt người đi làm giấy tờ phải đi lại nhiều lần, bổ sung hết giấy này đến giấy khác và không hẹn bao giờ xong việc, cố tình để dân chờ đợi dài cổ cho đến khi... chìa ra phong bì. Người trực tiếp giải quyết công việc có thể cò kè ngã giá xin-cho ngay tại bàn làm việc hay qua trung gian “cò”...
Tiếp theo là  phải có luật lệ thủ tục hành chính, minh bạch, rõ ràng; phải tạo cho được sự cạnh tranh lành mạnh trong xã hội. Và đặc biệt là cần xóa bỏ độc quyền ở một số ngành. Điều quan trọng nữa là phải triệt để xóa bỏ bao cấp. Còn quá nhiều ngành được bao cấp hoặc mang tiếng là xóa bao cấp nhưng chỉ xóa... nửa vời. Chính cái nửa vời mập mờ này đã tạo ra kẽ hở cho các “cò” lợi dụng. Do đó cần chuyển quan niệm về chính quyền từ cai trị sang phục vụ.
Thứ tiếp theo là cần nâng cao đạo đức công chức. Đây không phải là giải pháp mà là lương tâm trách nhiệm của mỗi cán bộ công chức. Khôngnên đổ lỗi cho cơ chế tiền lương mà quên đi trách nhiệm của mình.
Điều cần thiết không thể thiếu đó là quản lý xã hội phải bằng luật pháp mà phải  có một hệ thống pháp luật nghiêm minh, chế tài cương quyết, mạnh mẽ để công chức không thể, không muốn và không dám tham nhũng.Trên thực tế có luật nhưng là chưa nghiêm, thiếu nhưng thái độ cương quyết. Thậm chí còn nhiều kẻ hở để thanh trừng nhau, với thái độ cương quyết làm trong sạch nội bộ, bịt “cửa đút lót để mua chức” dù ở bất kỳ cấp nào, tổ chức nào giờ đây là thước đo phẩm chất cách mạng và lòng trung thành với chế độ. Có lẽ chỉ cần như vậy là đủ. Vì nếu khi người ta có quyền bằng chính năng lực, đạo đức và lương tâm cũng như tin nhiệm của dân thì chắc chắn sẽ  làm việc hết lòng vì dân và cũng được hưởng cái quyền là người dân tin yêu và trông đợi! Khi xã hội còn có thể mua được "chức, quyền" bằng tiền thì sẽ còn nạn tham nhũng tràn nan! và còn phải để ngỏ câu "chống tham nhũng" là chống ai?, ai chống?... dài dài .... 
Mai Phương 

Ý kiến của bạn
Ảo tưởng
nhà dột từ nóc dột xuống, muốn ko dột thì phải xử lý từ nóc.
tritd
THAM NHŨNG VẤN ĐỀ LO NGẠI NHẤT ĐỐI VỚI NGÀNH GIÁO DỤC TÌNH TRẠNG PHỤ HUYNH CHI PHONG BÌ” LÓT TAY” CHO THẦY CÔ GIÁO
THAM NHŨNG VẤN ĐỀ LO NGẠI NHẤT ĐỐI VỚI NGÀNH GIÁO DỤC TÌNH TRẠNG PHỤ HUYNH CHI PHONG BÌ” LÓT TAY” CHO THẦY CÔ GIÁO Tình trạng chạy điểm, chạy bằng cấp học vị , chuyển trường, phụ huynh chi phong bì” lót tay” cho thầy cô giáo vv…thực tế trong thời gian vừa qua đã xãy ra báo chí cũng đã nói nhiều , đây là vấn đề cần báo động, vì đối với ngành giáo dục là môi trường sư phạm đào tạo, nơi đào tạo mầm móng tương lai của đất nước, nếu không kịp thời có biện pháp kiên quyết để ngăn chặn tình trạng tiêu cực, thì các em nhìn vào đó không biết thế hệ tương lai như thế nào? Thời gian qua đa phần đội ngũ thầy cô giáo là tốt thể hiện lương tâm đạo đức của người thầy, tuy nhiên thực tế có một số giáo viên vì quyền lợi vật chất cho bản thân và gia đình mình, đã bắt ép học sinh của môn học đã dạy trên lớp phải học thêm, nếu không sẽ bị trù dập cho điểm kém , do vậy vì lo sợ con em mình bị điểm kém ở lại lớp nên phụ huynh phải cho các em đi học thêm, có trường hợp phụ huynh phải năn nỉ thầy cô giáo và làm đơn tự nguyện mới được đi học. Và điều kỳ diệu đã xãy ra, trước đây các em chưa đi học thêm bị điểm kém, nay được đi học thêm lập tức điểm khá giỏi ngay, phụ huynh không biết thực chất năng lực học tập của các em như thế nào. Đối với hội phụ huynh học sinh vì muốn thầy cô giáo quan tâm đến con em mình trong quá trình giảng dạy tại trường, nên cũng đã huy động đóng góp kinh phí để bồi dưỡng cho thầy cô giáo nhân dịp ngày nhà giáo 20/11 hàng năm và những lần thi kiểm tra học kỳ 1 và 2 trong năm học. Có nhiều trường Ban giám hiệu có sáng kiến đổi mới trong phương pháp giảng dạy, không biết Sở giáo dục đào tạo của địa phương có biết không , đã làm cho học sinh kể cả phụ huynh cũng rất nhiều lo lắng không yên tâm, cụ thể như Trường trung học phổ thông Lý tự Trọng thành phố Nha trang , tỉnh Khánh hòa, liên tục năm nào các lớp của các khối đều xáo trộn, các em học năm nào cũng là lớp mới, bạn bè mới. Qua tìm hiểu các em đều không muốn, vì tâm lý các em đều muốn có một lớp ổn định, bạn bè ổn định. Có lẽ ai cũng vậy cũng từng trãi qua các lớp ở cấp phổ thông đều có tâm lý như vậy. Thực tế việc xáo trộn như vậy đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em , nhiều em chán nản không muốn học gia đình phải động viên, các em học yếu không còn cách nào phụ huynh phải cho con em mình học thêm. Để có thể chấn chỉnh vấn đề nêu trên, cần thực hiện một số giải pháp như sau: Trước tiên các Sở giáo dục đào tạo , các phòng giáo duc kiểm tra ngay việc dạy thêm học thêm do cấp mình quản lý, có bao nhiêu trường hợp các thầy cô giáo chưa được cấp có thẩm quyền kiểm tra đủ điều kiện để cấp giấy phép hành nghề, nhưng vẫn dạy và báo cáo đề xuất với cấp trên hướng xử lý , biện pháp để chấn chỉnh. Thứ hai cần phối hợp với Hội phụ huynh học sinh phản ánh kịp thời đối với các thầy cô giáo bắt buộc các em phải học thêm, mặc dù các em không muốn học. Có thể đặt hòm thư góp ý tại các trường để phụ huynh phản ánh, thực tế hiện nay tâm lý phụ huynh không dám phản ánh, vì sợ thầy cô biết được sẽ trù dập con em mình đang học. Đồng thời không cho phép Hội phụ huynh huy động kinh phí để bồi dưỡng cho thầy cô giáo. Thứ ba Bộ giáo dục đào tạo phải kiên quyết xử lý đối với các thầy cô giáo vi phạm đạo đức, lương tâm nhà giáo , ảnh hưởng đến uy tín trong ngành giáo dục .Tùy theo mức độ vi phạm cần thiết buộc thôi việc, cho ra khỏi ngành, hoặc luân chuyển kịp thời đến trường khác mặc dù chưa đủ thời gian phải luân chuyển. Tăng cường công tác Thanh tra kiểm tra phát hiện các Trường tự ý cho phép Hội phụ huynh huy động kinh phí sử dụng để chi bồi dưỡng cho thầy cô giáo, có biện pháp xử lý kịp thời đối với Ban giám hiệu nhà trường. Nếu Bộ giáo dục đào tạo chỉ đạo kiên quyết , tin chắc rằng trong thời gian đến tình trạng chi phong bì ” lót tay “cho thầy cô giáo sẽ sớm được khắc phục. MINH TRÍ
MINH TRÍ
Chay chuc quyen thanh te nan xa hoi
Hien tuuong chay chuc quyen bay gio thanh QUOC NAN
Nguyen Duc Thinh
hay hoc phat
Muon chong tham nhung thi phai bat dau tu khau to chuc can bo, neu can bo tot vua hong vua chuyen thi se khong con tham nhung. va moi can bo phai hoc 10 dieu dan cua phat
Vinh phuc

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Chín lí do cho công bố quốc tế

 

Bác sĩ K sau khi điều trị thành công một số ca ung thư tại bệnh viện bằng một dược thảo hiếm, và qua tìm hiểu trong y văn về thành phần hóa học của dược thảo, chị và đồng nghiệp thực hiện một nghiên cứu lâm sàng để đánh giá sự hiệu quả của dược thảo. Sau 2 năm nghiên cứu và theo dõi bệnh nhân kết quả nghiên cứu cho thấy quả thật dược thảo có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân ung thư 30%. Bác sĩ K và đồng nghiệp viết một bài báo khoa học mô tả qui trình nghiên cứu và báo cáo kết quả gửi cho một tập san y khoa Mĩ. Sau 9 tháng bình duyệt và phản biện, công trình nghiên cứu được công bố. Với sự cộng tác của đồng nghiệp, chị tiếp tục công trình nghiên cứu bằng cách triển khai một loạt nghiên cứu về tế bào và lâm sàng, và tiếp tục công bố nhiều bài báo khoa học cho thấy hiệu quả của dược thảo có cơ sở khoa học. Với công trạng đó, chị được đề bạt chức danh phó giáo sư, và phát triển thành một nhóm nghiên cứu nhỏ. Phát hiện của chị được đồng nghiệp quốc tế quan tâm. Chị được mời đi nói chuyện ở các hội nghị quốc tế. Chị nhận được nhiều lời mời từ nhiều đồng nghiệp trên thế giới hợp tác, trong đó có một số công ti dược đề nghị phát triển thành một loại thuốc điều trị ung thư.
Trường hợp mà tôi vừa mô tả không phải là một ví dụ mang tính tưởng tượng, mà đã trở thành thực tế ở nhiều nước đang phát triển. Ví dụ trên cho thấy: (a) nghiên cứu xuất phát từ nhu cầu thực tế, hay trong trường hợp trên là nhắm vào việc đem lại phúc lợi cho bệnh nhân không chỉ ở địa phương mà cho thế giới; (b) công bố kết quả nghiên cứu trên một tập san quốc tế có uy tín và chất lượng là một cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế và đem lại lợi ích cho kinh tế nước nhà; (c) về mặt cá nhân, công bố quốc tế giúp cho sự nghiệp khoa học của nhà nghiên cứu được nâng cao; và (d) góp phần vào việc nâng cao y học nước nhà.

Thế nhưng gần đây có ý kiến cho rằng không nên bàn về công bố quốc tế (một vấn đề đang thu hút quan tâm của các nhà khoa học có tâm huyết hiện nay) mà nên cải cách lương bổng và hệ thống đánh giá nghiên cứu khoa học (vốn đã được rất nhiều người nêu lên nhiều lần trong 20 năm qua). Thật ra, công bố kết quả các công trình nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế (gọi tắt là “công bố quốc tế”) chỉ là một trong những bước cần thiết trong cách đánh giá nghiên cứu khoa học, cho nên không nên lẫn lộn hai khía cạnh có liên quan mật thiết này. Ở đây, tiếp theo một bài viết trước (“Một vài hiểu lầm tai hại”) người viết bài này trình bày 9 lí do tại sao cần phải công bố quốc tế. Thật ra, còn nhiều lí do khác, nhưng 9 lí do này được xem là quan trọng nhất trong bối cảnh khoa học hiện nay ở nước ta. Chín lí do không xếp theo thứ tự quan trọng mà chỉ theo một thứ tự theo chủ đề mà giới khoa học quan tâm.

Lí do 1: Nghĩa vụ và đạo đức
Bài báo khoa học là một bước cuối cùng trong qui trình nghiên cứu khoa học. Nó là thành quả của nhiều năm tháng miệt mài suy nghĩ, làm thí nghiệm, thu thập dữ liệu, phân tích và thảo luận cùng đồng nghiệp. Trong nhiều trường hợp, ngân quĩ nghiên cứu được Nhà nước cung cấp, hay nói chính xác hơn là tiền của người dân đóng góp. Do đó, công chúng có quyền đòi hỏi nhà nghiên cứu phải công bố kết quả nghiên cứu một cách minh bạch và thành thật, chứ không phải là những tài liệu được xếp trong tủ sách mà rất ít người có thể tiếp cận. Bổn phận của nhà nghiên cứu, do đó, phải báo cáo cho công chúng biết họ đã làm ra sao và phát hiện gì, chứ không phải làm xong và chẳng ai biết.

Đối với các nghiên cứu y khoa (như trường hợp tôi vừa mô tả), đại đa số nghiên cứu đều dựa vào sự tình nguyện của bệnh nhân, với một số thủ thuật nghiên cứu có thể mang tính xâm phạm bệnh nhân. Nếu những nghiên cứu như thế mà kết quả không được công bố một cách minh bạch thì có thể nói rằng nhà nghiên cứu đã vi phạm y đức.

Do đó, việc công bố kết quả nghiên cứu là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu đối với người dân và trong trường hợp y khoa, đó cũng là một hình thức duy trì y đức ở mức cao nhất.

Lí do 2: Đóng góp vào tri thức quốc tế
Ai cũng biết rằng tri thức con người được tích lũy theo thời gian, với sự đóng góp của nhiều người từ nhiêu quốc gia. Trong quá khứ, phần lớn tri thức khoa học xuất phát từ các nước phương Tây, nơi mà văn hóa khoa học (kể cả văn hóa công bố ấn phẩm khoa học) đã được hình thành tốt. Nhưng ở các nước châu Á, tri thức khoa học thường không được công bố mà chỉ giới hạn trong gia tộc hay thậm chí theo nhà khoa học xuống đáy mồ! Ngay cả ở Việt Nam trước đây, những tri thức khoa học về con người, địa lí, văn hóa, thậm chí lịch sử đều do người Pháp làm chủ.

Bài báo khoa học là một sản phẩm tri thức. Những tri thức mang tính thực tế có thể đem lại phúc lợi cho xã hội, hay trong trong trường hợp vừa mô tả trên, kết quả nghiên cứu cung cấp một tri thức quan trọng cho chuyên ngành và thêm một lựa chọn trong việc điều trị. Do đó, công bố quốc tế không chỉ là một hình thức làm chủ kiến thức cho nước nhà, mà còn đóng góp vào kho tàng tri thức của con người.

Lí do 3: Phúc lợi xã hội
Tất cả nghiên cứu dù ứng dụng hay cơ bản đều không ít thì nhiều nhắm đến việc đem lại phúc lợi cho xã hội. Chẳng hạn như trong trường hợp mô tả trên đây, nghiên cứu có mục tiêu liên quan mật thiết đến bệnh nhân ung thư. Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy dược thảo không có hiệu quả, nhà nghiên cứu cần phải công bố cho cộng đồng quốc tế biết để những người đi sau không phải tốn công và tiền bạc để theo đuổi, hoặc người đi sau sẽ tìm một phương pháp nghiên cứu tốt hơn. Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy dược thảo có hiệu quả tốt, nhà nghiên cứu cũng cần công bố để đồng nghiệp biết đến và có thể ứng dụng cho việc điều trị bệnh nhân của họ.

Nói cách khác, việc công bố quốc tế không phân biệt nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng, và cũng không phân biệt nghiên cứu có kết quả “dương tính” hay “âm tính”. Đối với y sinh học, dù kết quả nghiên cứu thế nào thì việc công bố quốc tế cũng là một việc lam tất yếu.

Lí do 4: Chứng từ khoa học
Tháng 3 năm 2005, trong phiên tòa xét xử đơn kiện của Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (kiện các công ti hóa chất Mĩ), thẩm phán Jack Weinstein phán quyết rằng phía nguyên đơn không cung cấp được những bằng chứng khoa học để làm cơ sở cho đơn kiện, còn những “bằng chứng” mà phía nguyên đơn cung cấp chỉ được xem là “chuyện tào lao”.

Trong một bài báo khoa học mà tôi và đồng nghiệp sắp công bố, chúng tôi có bàn về hiệu quả của chính sách y tế công cộng ở Việt Nam liên quan đến một bệnh truyền nhiễm, nhưng một chuyên gia bình duyệt phê bình rằng lời nhận xét đó thiếu bằng chứng khoa học và yêu cầu chúng tôi cho xem một bài báo khoa học để làm cơ sở cho nhận xét đó. Tất nhiên, chúng tôi không có một bài báo khoa học nào để làm cơ sở cho nhận định đó. Thời gian gần đây, trong vụ tranh chấp về lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc, khi kiểm tra lại chúng ta cũng thấy thiếu thốn những chứng từ khoa học.

Những ví dụ thực tế trên đây cho thấy sự thiếu thốn bài báo khoa học và công bố quốc tế gây thiệt thòi nghiêm trọng chẳng những cho một sự tiếp nối của nghiên cứu khoa học mà còn gây ảnh hưởng lớn đến một vấn đề mang tầm vóc quốc gia. Do đó, công bố quốc tế có thể hiểu như là một chứng từ khoa học, chứ không phải là một việc làm của giới khoa học “elite”. Thật vậy, bài báo khoa học là một chứng từ khoa học, là tài sản tri thức của một quốc gia. Bởi vì tính chứng từ của bài báo khoa học, công bố quốc tế không phân biệt nước nghèo hay giàu, và không phân biệt khoa học cơ bản hay khoa học ứng dụng.

Lí do 5: Chuẩn mực khách quan
Phần lớn các công trình nghiên cứu ở Việt Nam được kết thúc (hay đánh giá) bằng những buổi lễ khá màu mè gọi là “nghiệm thu” kèm theo báo cáo dài mang tính hành chính hơn là khoa học. Cách làm này rất khác so với cách làm chuẩn của quốc tế. Một chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế và các cơ quan tài trợ cho nghiên cứu đều nhất trí là công trình khoa học phải được đánh giá qua ấn phâm khoa học được công bố trên các tập san khoa học có uy tín, bằng sáng chế, số lượng nghiên cứu đào tạo, và khả năng ứng dụng vào thực tiễn (nếu là công trình nghiên cứu ứng dụng). Cụm từ “tập san khoa học có uy tín” ở đây có nghĩa là những tập san được Viện thông tin khoa học (ISI) công nhận. Ở Việt Nam, tuy có nhiều tập san khoa học, nhưng chưa một tập san nào được ISI công nhận.

Chuẩn mực đánh giá công trình khoa học thiếu tính minh bạch dẫn đến chuẩn mực để xét phong chức danh giáo sư của Việt Nam cũng rất khác với các chuẩn mực quốc tế. Phần lớn những giáo sư ở Việt Nam không có công trình được công bố trên các tập san quốc tế. Nhận thức được vấn đề này và qua nhiều góp ý của các nhà khoa học, Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước mới đề ra những qui định mới, nhưng vẫn chưa hợp lí. Chẳng hạn như theo qui định mới, các ứng viên chức danh giáo sư sẽ được tính điểm bằng bài báo khoa học, và bài báo khoa học đặc biệt xuất sắc được đăng trên các tạp chí hàng đầu quốc tế và Việt Nam được nhiều người trích dẫn có điểm tối đa là 2. Nhưng qui định này vô hình chung đánh đồng chất lượng tập san quốc tế và tập san trong nước mà ai cũng biết là chất lượng không cao. Giáo sư Hoàng Tụy từng nhận xét rằng nếu đánh giá cách khách quan, trên 70% các giáo sư và phó giáo sư Việt Nam không đạt tiêu chuẩn giáo sư.

Thử hỏi nếu một giáo sư Việt Nam ra nước ngoài công tác hay hợp tác khoa học mà lí lịch khoa học không có đến một vài bài báo khoa học được công bố trên các tập san khoa học quốc tế thì đối tác sẽ nghĩ gì ? Chắc chắn họ sẽ nghĩ rằng một thành tích như thế còn chưa xứng đáng là một tiến sĩ hay hậu tiến sĩ, và ấn tượng của họ về khoa học Việt Nam chắc cũng không đẹp.

Do đó, công bố quốc tế phải và nên được xem là một chuẩn mực quan trọng để đánh giá thành quả của một công trình nghiên cứu, và là một tiêu chuẩn tối thiểu để xét phong các chức danh giáo sư và phó giáo sư.

Lí do 6: Sự nghiệp nhà nghiên cứu
Trong hoạt động khoa học, bài báo khoa học là một đơn vị tiền tệ, một viên gạch để xây dựng sự nghiệp khoa học. Ngay từ lúc xin vào học tiến sĩ, một số nơi đã đòi hỏi thí sinh phải có "kinh nghiệm nghiên cứu" thể hiện qua bài báo khoa học. Khi đã được nhận vào chương trình học tiến sĩ, bài báo khoa học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để cấp bằng tiến sĩ. Sau khi đã tốt nghiệp tiến sĩ, bài báo khoa học là một tiêu chuẩn có lợi để cạnh tranh trong việc xin học bổng hậu tiến sĩ.

Sau khi xong chương trình hậu tiến sĩ, bài báo khoa học là một tiêu chuẩn số 1 để cạnh tranh vào các chức danh giảng dạy đại học và viện nghiên cứu. Thật ra, ở một số đại học lớn bên Mĩ, người ta có những qui định cụ thể về con số bài báo khoa học và vị trí tác giả như là một tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức danh giáo sư. Ngoài ra, đối với nhà nghiên cứu và giáo sư, bài báo khoa học còn là một tiêu chuẩn quan trọng để xin tài trợ cho nghiên cứu.

Do đó, cần phải đặt yêu cầu công bố quốc tế lên hàng đầu trong hoạt động khoa học ngay từ giai đoạn nghiên cứu sinh cấp thạc sĩ và tiến sĩ. Thật ra, ở Việt Nam, theo qui định mới về đào tạo tiến sĩ, qui định đề bạt chức danh giáo sư, qui chế cung cấp tài trợ cho nghiên cứu, v.v… cũng đã đưa yêu cầu về công bố quốc tế như là một tiêu chuẩn.

Lí do 7: Cơ hội hợp tác
Nghiên cứu khoa học nói cho cùng là một lĩnh vực hoạt động xuyên quốc gia. Ngày nay, hợp tác trong nghiên cứu khoa học là một chuẩn mực (norm) chứ không phải là một biệt lệ. Ở nước ta, trong điều kiện thiếu thiết bị và hạn chế về phương pháp, việc hợp tác khoa học là một nhu cầu rất lớn. Chỉ có thể qua hợp tác quốc tế, giới khoa học Việt Nam mới có cơ hội hội nhập và nâng cao kĩ năng nghiên cứu cho mình.

Nhưng hợp tác quốc tế không thể xảy ra một cách ngẫu nhiên hay ngẫu hứng. Bất cứ ai làm khoa học cũng đều biết rằng đồng nghiệp tìm với nhau qua những bài báo khoa học trên các diễn đàn khoa học. Các tập san khoa học và hội nghị khoa học quốc tế chính là những diễn đàn lí tưởng để các nhà nghiên cứu tụ tập với nhau và hợp tác làm việc. Như trường hợp mô tả phần đầu của bài viết cho thấy công bố quốc tế dẫn đến sự ghi nhận của đồng nghiệp quốc tế và mở ra một cơ hội hợp tác và phát triển. Do đó, công bố kết quả trên các tập san này là một cách để nâng cao sự hội nhập của khoa học Việt Nam và qua đó củng cố nội lực của giới nghiên cứu Việt Nam.

Lí do 8: Hội nhập quốc tế
Trong một thời gian dài, khoa học Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh lịch sử của đất nước, chịu sự cô lập và khép kín. Hệ quả là số lượng công trình khoa học được công bố trên các tập san quốc còn cực kì giới hạn. Khoảng 10 năm trước, tập san Science (một tập san khoa học số 1 trên thế giới) có một loạt bài điểm qua tình hình hoạt động khoa học ở các nước Đông Nam Á, nhưng họ không hề nhắc đến Việt Nam. Ngay cả hai chữ “Việt Nam” cũng không có mặt trong loạt bài đó. Khi người viết bài này phàn nàn thì họ lịch sự cho biết rằng họ đã xem qua danh mục các bài báo khoa học Việt Nam trên các tập san quốc tế, nhưng thấy không có gì để nói. Họ cho rằng khoa học Việt Nam chưa hội nhập quốc tế.

Chỉ sau khi thời mở cửa và nhất là sau thời gian Mĩ bỏ cấm vận, khoa học Việt Nam mới có dịp hội nhập quốc tế, nhưng tốc độ còn quá chậm. Một trong những lí do mà khoa học nước ta chậm hội nhập là thiếu những chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những quan điểm như nghiên cứu ứng dụng không cần công bố quốc tế, nước còn nghèo nên tập trung vào những nghiên cứu thực tế chứ không cần đến bài báo khoa học, v.v… Nhưng tất cả những quan điểm này hoặc là không phù hợp với tiêu chuẩn hoạt động khoa học hay mâu thuẫn. Như trình bày trong ví dụ trên, công bố quốc tế không phân biệt nghiên cứu ứng dụng hay nghiên cứu cơ bản, bởi vì nói công bố quốc tế chỉ là một công đoạn sau cùng của bất cứ một công trình nghiên cứu nào.

Lí do 9: Nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam
Số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học là một thước đo quan trọng về khả năng khoa học của một nước. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia.

Trong thời gian gần đây, đã có nhiều phân tích cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học của Việt Nam còn quá thấp kém so với các nước trong vùng. Chẳng hạn như trong thời gian 10 năm 1996-2005 số lượng ấn phẩm khoa học của Việt Nam (3456 bài), chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/3 của Malaysia , và 1/14 của Singapore. Ngay cả so với Philippines (3901 bài) và Indonesia (4389 bài), số bài báo khoa học từ nước ta vẫn thấp hơn. Tình trạng này vẫn chưa có gì cải tiến trong vài năm gần đây. Trong năm 2008 (tính đến tháng 10), các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 910 bài báo khoa học trên 512 tập san khoa học quốc tế (so với 5553 bài của Singapore và 3310 của Thái Lan, hay 2194 bài của Mã Lai).

Có nhiều nguyên nhân cho tình trạng trên, kể cả vấn đề phân phối kinh phí nghiên cứu một cách thích hợp. Không ít các giáo sư hay các "cây đa cây đề" ở Việt Nam còn suy nghĩ rằng nghiên cứu ứng dụng không cần công bố quốc tế, và từ đó việc xét phong giáo sư không dựa vào số lượng ấn phẩm khoa học như là một tiêu chí. Hệ quả của sự sai lệch trong nhận thức và tiêu chí đề bạt là số lượng ấn phẩm khoa học từ Việt Nam còn quá khiêm tốn. Thật vậy, với trên 38.000 giảng viên đại học (trong số này có trên 1100 giáo sư và phó giáo sư, và 5600 tiến sĩ) mà con số ấn phẩm khoa học còn thua cả một quốc gia nhỏ bé như Malaysia ! Nhận thức như thế để thấy rằng việc công bố quốc tế không chỉ đơn thuần là chuyện cá nhân nhà khoa học mà còn là sĩ diện quốc gia.

***

Thật ra, những gì tôi viết trên đây chẳng có gì mới, vì đã được bàn thảo khá nhiều và ở một mức độ nào đó cũng gây nên vài tác động tích cực. Đối với những người làm nghiên cứu khoa học thật sự, họ đã và đang công bố quốc tế, không cần phải nhắc nhở lại những điều quá hiển nhiên. Ngay cả những người phản đối (hay không mặn mà) với việc công bố quốc tế cũng nhận thức được những điều tôi vừa trình bày. Tuy nhiên, có lẽ do những khó khăn hay lí do mang tính cá nhân, nên có những lí lẽ không thuyết phục (nếu không muốn nói là ngụy biện) để gây ảnh hưởng với các cơ quan quản lí khoa học. Thật ra, ngay cả giới quản lí khoa học cũng ghi nhận sự quan trọng của công bố quốc tế, nhưng vì chịu sự chi phối của nhiều “cây đa cây đề” nên đôi khi cũng lúng túng trong quyết định.

Kinh nghiệm của tôi cho thấy có nhiều (rất nhiều) nhà khoa học rất muốn công bố quốc tế vì họ thấy đó là một sự cần thiết cho cá nhân và cho đất nước, nhưng do “lực bất tòng tâm” (như vấn đế tiếng Anh chẳng hạn) nên không thực hiện được. Có lẽ đây chính là những người mà Nhà nước cần tập trung giúp đỡ. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều nỗ lực tổ chức những lớp tập huấn về cách viết bài báo khoa học, nhưng những nỗ lực đó vẫn giới hạn trong một vài nơi và cá nhân. Chúng ta cần tiếp cận vấn đề công bố quốc tế một cách có hệ thống cho tất cả các trung tâm nghiên cứu hay trường đại học.

Mỗi năm, nước ta chi ra khoảng 400 triệu USD cho nghiên cứu khoa học. Con số này chiếm khoảng 0,17% GDP toàn quốc. Nhưng thành quả từ sự đầu tư đó vẫn chưa thể đo lường được, do thiếu các chuẩn mực cụ thể. Công bố quốc tế là một thước đo khách quan để đánh giá hiệu quả của đồng tiền mà người dân đã bỏ ra. Đó cũng là một thước đo mà các nước tiên tiến khác đã áp dụng thành công. Nếu chúng ta chưa tạo ra được một thước đo mới, thì cách hay nhất là dựa vào chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế chấp nhận: đó là công bố quốc tế.

Đã làm nghiên cứu khoa học (ngoại trừ trường hợp công chức khoa học), bất kể là khoa học cơ bản hay ứng dụng (thực ra sự phân chia này hoàn toàn không cần thiết), thì phải có “sản phẩm”. Sản phẩm phải thể hiện qua các bài báo khoa học công bố trên các tập san được giới khoa học quốc tế công nhận, qua bằng sáng chế, hay qua thành tựu được đưa vào ứng dụng thực tế. Đó là điều hiển nhiên. Thiết tưởng không cần phải tốn thì giờ bàn cãi về những điều hiển nhiên này.

“Cổ phần” ấn phẩm khoa học trên thế giới đang thay đổi nhanh chóng, với sự hiện diện của các nước đang phát triển đang càng ngày càng gia tăng. Năm 1985, số ấn phẩm khoa học từ Mĩ và Canada chiếm gần 40% tổng số ấn phẩm trên thế giới, nhưng đến năm 1991, con số này giảm xuống còn 28.2%, và năm 1998 lại giảm xuống còn 31.4%. Trong thời gian đó, số ấn phẩm từ các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông lại tăng “cổ phần” từ 10% đến 24%. Riêng các nước Đông Âu, kể cả Nga, thì ấn phẩm khoa học không đáng kể và có xu hướng giảm. Số ấn phẩm từ các nước trong vùng Đông Nam Á, kể cả Việt Nam, cũng tăng nhanh trong thời gian 10 năm gần đây, tuy con số tuyệt đối vẫn còn khiêm tốn so với các cường quốc khoa học như Mĩ, Canada và các nước Tây Âu. Do đó, thật là một sự đi ngược trào lưu nếu kêu gọi Việt Nam không nên khuyến khích các nhà khoa học công bố quốc tế. Thật ra, Việt Nam cần phải tăng cường số lượng (và chất lượng) ấn phẩm khoa học trên trường quốc tế, và ngay bây giờ chính là thời điểm lí tưởng để nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam lên một nấc thang cao hơn.


NVT

Mười Đặc điểm của Phật giáo

 

Phật giáo là một hệ thống triết lí, rất khó mà hiểu hết hệ thống này. Càng có tuổi, càng đụng chạm với những vấn đề của sự chết và sự sống, về khoa học, sinh học phân tử, v.v... tôi càng thấm thía triết lí Phật giáo.

Tôi rất ấn tượng với câu "Làm sao em biết bia đá không đau" của Trịnh Công Sơn. Theo Phật giáo thì tất cả các sự sống đều có tri giác, đều biết đau. Bây giờ chúng ta biết rằng cây cỏ cũng biết đau (theo một nghiên cứu đột phá gần đây trên Science). Nếu xem đá là sự sống thì đá chắc cũng biết đau. Trịnh Công Sơn hoàn toàn có lí!

Nhưng đọc sao hết? Bài sau đây của HT Thích Trí Quang (một nhân vật từng có thời 'sóng gió' trong chế độ ông Diệm) rất ngắn gọn nhưng phản ảnh những nét chính của Phật giáo một cách đầy đủ. Xin giới thiệu các bạn.

NVT

======
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
Thứ nhất, đặc điểm của Phật Giáo là “In như sự thật”: Lý thuyết, phương pháp cùng kết qủa đều hợp lý, đều như thật. Phật Giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và chỉ nói những sự thật mà sự vật có, không thêm không bớt. Đạo Phật, nhân đó, cấm đoán những tín ngưỡng và những hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, luôn theo, đạo Phật không công nhận những kết qủa của tín ngưỡng mê mờ, hành động manh động là hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
Đặc điểm thứ hai là “tôn trọng sự sống”. Không sát sanh, ăn chay, là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để nuôi sự sống là mê muội mà vì tham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn, mà còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như “thay khổ cho chúng sanh” để cứu vạn loại. Đạo Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống.
Đặc điểm thứ ba của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh tồn”. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không thể biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp dụng trong trường hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
Đặc điểm thứ tư của đạo Phật là xác nhận “người là trung tâm điểm của xã hội loài người”. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thật tế ở đâu cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa hay thoái hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chuá tể của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai.
Đặc điểm thứ năm là đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bịnh con người trước hết”. Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài người, xã hội ấy tiến hoá hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi phối; mà hoạt động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội là phản ảnh trung thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bịnh con người. Tâm bịnh con người nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm bịnh con người được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết qủa của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
Đặc điểm thứ sáu, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi, trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm qủa cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến hóa, trí là trí thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như thế là con người mới, căn bản của xã hội mới.
Đặc điểm thứ bảy của đạo Phật là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết qủa được cái “qủa mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối bình đẳng như sự sống: bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.
Đặc điểm thứ tám của đạo Phật là “tiến lên vô thượng giác”. Đào luyện một con người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo Phật cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người tiến dần lên chóp đỉnh của sự tiến hoá là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ toàn giác, địa vị Phật đà.
Đặc điểm thứ chín là đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”. Đấy là một tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường sáng cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi đường, phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi. Con người mới là phải tự rèn luyện; xã hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu, tự chứng. Tự lực giảì thóat là con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An lạc không phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Một điều nữa, nước trong bản chất là nước đục, hoa sen không mọc trên cát vàng, cho nên người đạo Phật phải tự lực giải thoát ngay trong cảnh giới đau khổ mê muội. Lánh ngoài thế gian đau khổ để tìm giác ngộ, thì kinh dạy, đó là đi tìm sừng con thỏ. Phật tử không có đứng vào hàng ngũ thông minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ. Hoa Đàm muôn thưở người ta chỉ tìm thấy trong ao bùn, tuệ giác vô thượng chỉ có bởi chúng sanh.
Đặc điểm thứ mười của đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”. Đức Phật chỉ hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thóat mà thôi, mà còn đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Thế nào gọi là sự hiện chứng? Ví dụ con đường đi đến Mai thôn có mười đoạn. Người đi không ham, không thể ham nhảy vọt đến Mai thôn mà không qua mười đọan đường, mà phải đi từng bước, bước từng đọan, được một đọan là đến Mai thôn một đọan. Con đường vô thượng giác cũng vậy, nương theo lời Phật chỉ dẫn, ta phải bước từng bước, hiện chứng đến đâu thể nghiệm chân lý đến đó, cho đến khi toàn giác. Đức Phật tạo cho ta cái thang, nhưng không kéo dàn hoa xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực mà trèo từng nấc thang lên dàn hoa chân lý. Trèo được nấc nào là tự thể nghiệm chân lý nấc ấy. Đối với chân lý chưa hiện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần tu chứng đạo Phật là thế.

Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo. “Đạo Phật là tất cả”, đó là một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết của đạo Phật. Cho nên Phật tử không thực hành đạo Phật bằng cách để hoạt động của mình một phần chính vào sự lễ bái, cầu nguyện. Phật tử thực hành đạo Phật là áp dụng vào đời sống, áp dụng vào tất cả mọi hoạt động. Căn bản của đạo Phật là như thật, tinh thần đạo ấy là bi, trí, dũng. Sống trong căn bản và tinh thần ấy, Phật tử tự nhiên không thể không phủ nhận sự tàn sát, sự manh động và sự nô lệ. Cho nên họ phải tự lực hành động để thượng thượng năng tiến. Và hành động ấy không có lãnh vực trong không gian, không có giới hạn trên thời gian, không có phạm vi trong tổ chức, không có khu phân trong trường hợp. Ở đâu và lúc nào, với ai và cảnh nào, Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần bi, trí, dũng của đạo Phật vào để tác động và chi phối, hầu tạo thành một thế giới tịnh độ. Cho nên đạo Phật bao trùm tất cả. Nói ngược lại, tất cả có tinh thần đạo Phật mới tốt đẹp.
Hoà Thượng Thích Trí Quang
(Source: Báo PHẬT GIÁO HẢI NGOẠI - Số 17, năm 1999 - Phật Lịch 2543)

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Bài học của Gary

"Bài học của Gary" có thể ứng dụng qua nhiều khía cạnh với các bạn trẻ đang tìm việc làm hay các doanh nghiệp đang gặp khủng hoảng trong cơn bão năm Thìn này. Căn bản của bài học là hai nguyên lý: (a) chăm chú đến giải pháp, không phải vấn đề và (b) nếu biết sáng tạo, chúng ta sẽ tìm giải pháp cho mọi vấn đề.
Tôi quen Gary Woodworth khi ông bước vào cửa hàng bán vật dụng thể thao của người em họ, Tuấn, ở Van Nuys, California. Qua Mỹ năm 1975, Tuấn đi làm bảo vệ được 4 năm, bị đuổi vì ngủ với cô quét dọn văn phòng. Anh chạy ngược xuôi, vay mượn bạn bè bà con, cùng với tiền tiết kiệm cá nhân, hơn 250 ngàn đô la để mở tiệm bán lẻ. Tôi cũng là một nạn nhân bất đắc dĩ.
Hai năm đầu, cửa hàng sống chật vật nhưng cũng có khách và theo ngạn ngữ của Mỹ, Tuấn "giữ được đầu mình khỏi mặt nước" (keep his head above water). Anh còn quay về sở cũ, tán một cô lao công Mỹ khác, và cưới cô này đem về phụ trông coi tiệm. Nhưng ảnh hưởng của trận suy thoái 1981- 1983 bắt đầu lan rộng, và tiệm vật dụng thể thao của Tuấn suy sụp. Chi phí và tiêu xài cho gia đình ăn vào vốn và Tuấn mời tôi lên tiệm tư vấn cho anh về thủ tục phá sản. Tôi có thừa kỹ năng vì đang chuẩn bị "đắp chiếu" cho dự án bất động sản của mình bên Arizona.
Gary và giải pháp miễn phí
Gary tươi cười khi bước vào chào hỏi chúng tôi, đang ủ rũ như hai con mèo chết. Khoảng hơn 50 tuổi, áo quần bảnh bao, Gary giống như một thương nghị sĩ với mái tóc trắng và phong cách lịch lãm. Nghĩ Gary là một nhân viên bán hàng từ Nike hay Reebok gì đó, Tuấn bỏ đi uống cà phê, nhờ tôi tiếp giùm.

Gary nói hôm nay là ngày may mắn của ông. Tôi có giải pháp cho vấn đề của ông và ông không phải tốn một đồng xu nào. Tôi điện thoại cho Tuấn về ngay vì không một ông chủ doanh nghiệp nào lại có thể bỏ qua một đề nghị hào hứng đến vậy. Đề nghị của Gary rất đơn giản, "Bổ nhiệm tôi làm quản lý cửa hàng này. Tôi không lĩnh lương và cứ mỗi tháng, tính sổ và chia cho tôi 25% số tiền lời của cửa hàng. Tôi cũng được quyền mua lại 30% tổng số cổ phiếu của công ty với giá vốn (book value) trong 2 năm tới. Các ông đang lỗ, chắc chắn không mất gì trong phi vụ này".
Tuấn đồng ý và Gary bắt đầu ứng dụng nghệ thuật sáng tạo về tiếp thị với các hoạt động hàng ngày. Gary đi tiếp xúc các câu lạc bộ thể thao trong vùng, từ các đội bóng chày nhỏ của trẻ em đến các sân golf, tennis, polo...của các người giàu. Ông còn lập ra chương trình trả hoa hồng cho các người "giới thiệu" và các khách hàng lớn. Ông cũng cất công đi liên tục tìm các nhà tài trợ cho các chương trình thể thao ông sáng lập. Sau 2 tháng, cửa hàng có lời và thu nhập của Gary tăng đều đặn. Một năm sau, ông mua lại 30% công ty và 3 năm sau, ông làm chủ 100%. Tuấn ôm được mớ tiền, đi xuống Mexico mở quán bar, tìm thêm vài cô vợ Mỹ. Mọi người vui vẻ.
Sáng tạo vì hoàn cảnh
Sau này, những khi ngồi tâm sự riêng với nhau, Gary mới kể cho tôi thêm về nhiều mẩu chuyện khác của đời ông. Sinh ra trong một gia đình thật nghèo ở Arkansas vào thời sau Đại Suy Thoái của Mỹ, ông phải bỏ học từ lớp 7 để giúp cha mẹ nuôi 8 đứa em. Ông làm đủ mọi nghề và chưa bao giờ thất nghiệp một ngày nào, dù không có một học thức hay bằng cấp chính thống nào. Bí quyết của ông là tìm hiểu thật rõ về vấn đề người chủ doanh nghiệp đang đối diện và tìm một giải pháp thỏa đáng trước khi tiếp cận.
Gary nói, "Tôi thấy các bạn trẻ cũng như già đi tìm việc thật buồn cười. Doanh nghiệp đang thua lỗ, trên đường phá sản, muốn đuổi hết nhân viên chưa xong, mà họ lại mở miệng hãy cho tôi một việc làm, trả lương tôi hàng tuần và may ra, tôi có thể giúp. Thay vì giải pháp, họ đề nghị thêm một vần đề mới cho doanh nghiệp? Nhân viên cũ cũng không khá gì hơn. Họ áp lực mọi cách để hưởng thêm quyền lợi bất chấp sự suy sụp của công ty."
Dĩ nhiên không phải lúc nào Gary cũng thành công với giải pháp đề nghị. Nhiều lần ông cũng mất trắng nhiều thì giờ không lương bổng, hay phạm những sai lầm gây khó thêm cho doanh nghiệp. Nhưng ông ta hãnh diện nói với tôi rằng trong suốt 40 năm bôn ba trong thương trường, ông đã tạo nên vài sự nghiệp đáng kể lên đến cả chục triệu đô la.
Bí quyết của ông là tìm hiểu thật rõ về vấn đề người chủ doanh nghiệp đang đối diện và tìm một giải pháp thỏa đáng trước khi tiếp cận.
Khi cha mẹ mất trong một tai nạn xe cộ, ông mới 19 tuổi. Không muốn sở An sinh Xã hội bắt các em đi giao cho các gia đình giàu có, ông làm giả hồ sơ thu nhập và giấy khai sinh của mình để anh em vẫn được đoàn tụ bên nhau (Bên Mỹ, các trẻ em dưới 18 tuổi không có cha mẹ và thu nhập thường được Sở An sinh đem về chăm sóc để sau đó tìm một gia đình giàu có, ổn định nhận nuôi lại các em).
Ông kiêu hãnh vì đã dùng sức mình nuôi 8 đứa em đi học thành tài, cũng như 3 đứa con sau này. Khi ông qua California gặp chúng tôi, ông vừa mất vợ vì bệnh ung thư và gần 1 triệu đô khi tiền bệnh viện vượt quá số tiền bảo hiểm chi trả. Ông đã bỏ ra hai tuần để điều tra, nghiên cứu cửa hàng của chúng tôi và tìm giải pháp qua các chi tiết số liệu ông thu thập từ khách hàng và thư viện.
Cơ hội khắp nơi cho con người sáng tạo
Lần chót tôi gặp Gary cách đây 8 năm. Dùng phương pháp sáng tạo như đã đề nghị với chúng tôi, ông mua lại một công ty công cộng đang thua lỗ; cũng trong ngành phân phối dụng cụ và đồ thể thao. Ông gia tăng giá trị với những chiêu tiếp thị độc đáo và làm giàu cho mọi cổ đông, nhất là cá nhân ông. Ông nằng nặc mời tôi xuống chiếc du thuyền nhỏ của ông, chạy một vòng vịnh Los Angeles, và xin lỗi về sự khoe khoang này. Ông giải thích "tôi bận quá, mua xong thuyền, không có thì giờ khoe, lấy gì hưởng thụ?"
Sau đó vài năm, ông gởi tôi một Email, nói vừa mua lại một khu nghỉ dưỡng ở Belize cũng bằng phương pháp sáng tạo, không tiền mặt...và sống đời thoải mái trong hưu trí.
Nhu cầu của doanh nghiệp Việt
"Bài học của Gary" có thể ứng dụng qua nhiều khía cạnh với các bạn trẻ đang tìm việc làm hay các doanh nghiệp đang gặp khủng hoảng trong cơn bão năm Thìn này. Căn bản của bài học là hai nguyên lý: (a) chăm chú đến giải pháp, không phải vấn đề và (b) nếu biết sáng tạo, chúng ta sẽ tìm giải pháp cho mọi vấn đề.
Tôi tin rằng bất cứ doanh nhân nào có ít nhiều thông minh và khôn khéo kiểu Gary có thể mua lại và sở hữu bất cứ một công ty nào đang gặp khó khăn trầm trọng nếu chúng ta biết thiết kế một giải pháp khả thi không tốn kém gì cho doanh nghiệp. Đó là tư duy và hành xử hợp thời nhất vào giai đoạn này cho các nhà quản lý cũng như các chủ doanh nghiệp. Với những đầu óc thâm sâu, đây là những cơ hội M&A thật tuyệt vời. Đừng mong chờ hay tin vào một gói kích cầu của chính phủ hay các giải pháp từ quan chức hay chuyên gia trong tháp ngà.
Milan Kundera, văn hào của Czech, có thể hơi phấn khích khi ông tuyên bố là ..."doanh nghiệp chỉ có 2 nhiệm vụ: tiếp thị và sáng tạo" (Business has only two functions - marketing and innovation); nhưng chắc Gary sẽ hoàn toàn đồng ý.
----
TS Alan Phan là một doanh nhân bôn ba làm ăn trên 43 năm qua tại Mỹ và Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của 8 cuốn sách Anh và Việt ngữ về kinh tế tài chánh của các nền kinh tế mới nổi. Ông tốt nghiệp tại các đại học Penn State, American Intercontinental (Mỹ), Sussex (UK) và Southern Cross (Úc). Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.

Tình trạng báo động của hành tinh


Theo Le Point
Báo cáo "Hành tinh sống” do WWF 2012 công bố lo ngại về sự suy kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào năm 2030.
Thói tiêu thụ thái quá, sự khai thác kiệt quệ các tài nguyên thiên nhiên, và dân số ngày càng lớn đẩy Trái đất vào hiểm họa, theo báo cáo “Hành tinh sống 2012” của WWF (World Wide Fund for Nature, Quĩ Bảo tồn Thiên nhiên) xuất bản ngày thứ ba (15/05/12), vài tuần trước khi khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh Rio. Báo cáo này do phi hành gia người Hà Lan Andre Kuipers khởi xướng khi bay trên Trạm Không gian Quốc tế (ISS) vòng quanh trái đất và được công bố cứ hai năm một lần. "Chúng ta chỉ có một Trái đất, và từ ISS, tôi có thể thấy rõ dấu ấn của nhân loại trên hành tinh này; chúng ta hành hạ hành tinh của mình một cách khủng khiếp, trong khi đương nhiên là chúng ta phải cứu vớt ngôi nhà duy nhất của mình.”

Theo Jim Leape, Tổng giám đốc của WWF Quốc tế có trụ sở chính tại Gland (Thụy Sĩ), loài người "sống như thể họ đã có thêm một hành tinh nữa sẵn đó làm dự trữ. Chúng ta sử dụng tài nguyên nhiều hơn 50% so với khả năng mà Trái đất có thể cung ứng bền vững, và nếu không có gì được thay đổi, vào năm 2030, thậm chí hai hành tinh như Trái đất cũng vẫn sẽ không đủ cho chúng ta”. 

“Báo cáo này cũng giống như một cuộc tổng kiểm kê về hành tinh này, và kết quả cho thấy rằng hành tinh của chúng ta đang đau ốm dừ tử", Jonathan Baillie thuộc Hội Động vật học London, đồng tác giả của báo cáo này trần tình. "Bỏ qua chẩn đoán này sẽ đưa lại hậu quả trọng yếu cho nhân loại; chúng ta có thể khôi phục lại sức khỏe của hành tinh này, nhưng chỉ bằng cách giải quyết tận căn rễ: sự tăng trưởng dân số và sự tiêu thụ quá trời”, ông nói thêm.

Suy sụt kể từ năm 1970

Báo cáo “Hành tinh sống 2012” sử dụng một chỉ số để đo những thay đổi về sức khỏe của hệ sinh thái của hành tinh. Chỉ số này theo dõi hơn 9.000 quần thể của hơn 2.600 loài, và cho thấy một sự suy sụt tổng thể trong tất cả các quần thể kể từ năm 1970. Những hệ sinh thái nhiệt đới đang chịu tổn hại nhiều nhất, với một sự suy giảm 60% trong 40 năm qua. Báo cáo này cũng nêu bật tác động của quá trình đô thị hóa. Vào năm 2050, hai trong ba người sẽ sống ở các thành phố. Dân số ở các nước nghèo đã tăng lên 4,3 lần kể từ năm 1961, và dấu ấn sinh thái của họ đã tăng lên 323% trong khoảng thời gian này, báo cáo cảnh báo.

Ngoài ra, 13 triệu ha rừng đã bị mất đi mỗi năm trên thế giới từ năm 2000 đến 2010. Các nước BRIICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Indonesia và Trung Quốc) và các nước có thu nhập trung bình đã tăng dấu ấn sinh thái bình quân đầu người của họ 65% kể từ năm 1961. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa dấu ấn sinh thái (trên đầu người, ND) của các nước giàu và của các nước nghèo vẫn còn rất lớn. Báo cáo cho thấy những dấu ấn sinh thái của các nước giàu là năm lần cao hơn so với ở các nước nghèo. 10 quốc gia có dấu ấn sinh thái cao nhất trên đầu người là Qatar, Kuwait, UAE, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Bỉ, Úc, Canada, Hà Lan và Ireland.

Dân số thế giới đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 1950. Từ 7 tỷ người vào năm 2011, dự kiến dân số sẽ đạt trên 9,3 tỷ vào năm 2050. Báo cáo đề xuất cách để "tạo ra một tương lai yên ấm” cho "9 hoặc 10 tỷ” người từ nay đến năm 2050. Giải pháp bao gồm việc tạo dựng một nền sản xuất sử dụng ít năng lượng hơn, và giảm tiêu thụ. Báo cáo này được xuất bản năm tuần trước khi hội nghị về Phát triển bền vững của Liên hợp quốc được tổ chức tại Rio vào tháng sáu này và được gọi là Rio+20. Chính tại Rio vào năm 1992 Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất đầu tiên đã được tổ chức.

HOÀNG Hồng-Minh chuyển ngữ
Theo Le Point
Báo cáo "Hành tinh sống” do WWF 2012 công bố lo ngại về sự suy kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào năm 2030.
Thói tiêu thụ thái quá, sự khai thác kiệt quệ các tài nguyên thiên nhiên, và dân số ngày càng lớn đẩy Trái đất vào hiểm họa, theo báo cáo “Hành tinh sống 2012” của WWF (World Wide Fund for Nature, Quĩ Bảo tồn Thiên nhiên) xuất bản ngày thứ ba (15/05/12), vài tuần trước khi khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh Rio. Báo cáo này do phi hành gia người Hà Lan Andre Kuipers khởi xướng khi bay trên Trạm Không gian Quốc tế (ISS) vòng quanh trái đất và được công bố cứ hai năm một lần. "Chúng ta chỉ có một Trái đất, và từ ISS, tôi có thể thấy rõ dấu ấn của nhân loại trên hành tinh này; chúng ta hành hạ hành tinh của mình một cách khủng khiếp, trong khi đương nhiên là chúng ta phải cứu vớt ngôi nhà duy nhất của mình.”

Theo Jim Leape, Tổng giám đốc của WWF Quốc tế có trụ sở chính tại Gland (Thụy Sĩ), loài người "sống như thể họ đã có thêm một hành tinh nữa sẵn đó làm dự trữ. Chúng ta sử dụng tài nguyên nhiều hơn 50% so với khả năng mà Trái đất có thể cung ứng bền vững, và nếu không có gì được thay đổi, vào năm 2030, thậm chí hai hành tinh như Trái đất cũng vẫn sẽ không đủ cho chúng ta”. 

“Báo cáo này cũng giống như một cuộc tổng kiểm kê về hành tinh này, và kết quả cho thấy rằng hành tinh của chúng ta đang đau ốm dừ tử", Jonathan Baillie thuộc Hội Động vật học London, đồng tác giả của báo cáo này trần tình. "Bỏ qua chẩn đoán này sẽ đưa lại hậu quả trọng yếu cho nhân loại; chúng ta có thể khôi phục lại sức khỏe của hành tinh này, nhưng chỉ bằng cách giải quyết tận căn rễ: sự tăng trưởng dân số và sự tiêu thụ quá trời”, ông nói thêm.

Suy sụt kể từ năm 1970

Báo cáo “Hành tinh sống 2012” sử dụng một chỉ số để đo những thay đổi về sức khỏe của hệ sinh thái của hành tinh. Chỉ số này theo dõi hơn 9.000 quần thể của hơn 2.600 loài, và cho thấy một sự suy sụt tổng thể trong tất cả các quần thể kể từ năm 1970. Những hệ sinh thái nhiệt đới đang chịu tổn hại nhiều nhất, với một sự suy giảm 60% trong 40 năm qua. Báo cáo này cũng nêu bật tác động của quá trình đô thị hóa. Vào năm 2050, hai trong ba người sẽ sống ở các thành phố. Dân số ở các nước nghèo đã tăng lên 4,3 lần kể từ năm 1961, và dấu ấn sinh thái của họ đã tăng lên 323% trong khoảng thời gian này, báo cáo cảnh báo.

Ngoài ra, 13 triệu ha rừng đã bị mất đi mỗi năm trên thế giới từ năm 2000 đến 2010. Các nước BRIICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Indonesia và Trung Quốc) và các nước có thu nhập trung bình đã tăng dấu ấn sinh thái bình quân đầu người của họ 65% kể từ năm 1961. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa dấu ấn sinh thái (trên đầu người, ND) của các nước giàu và của các nước nghèo vẫn còn rất lớn. Báo cáo cho thấy những dấu ấn sinh thái của các nước giàu là năm lần cao hơn so với ở các nước nghèo. 10 quốc gia có dấu ấn sinh thái cao nhất trên đầu người là Qatar, Kuwait, UAE, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Bỉ, Úc, Canada, Hà Lan và Ireland.

Dân số thế giới đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 1950. Từ 7 tỷ người vào năm 2011, dự kiến dân số sẽ đạt trên 9,3 tỷ vào năm 2050. Báo cáo đề xuất cách để "tạo ra một tương lai yên ấm” cho "9 hoặc 10 tỷ” người từ nay đến năm 2050. Giải pháp bao gồm việc tạo dựng một nền sản xuất sử dụng ít năng lượng hơn, và giảm tiêu thụ. Báo cáo này được xuất bản năm tuần trước khi hội nghị về Phát triển bền vững của Liên hợp quốc được tổ chức tại Rio vào tháng sáu này và được gọi là Rio+20. Chính tại Rio vào năm 1992 Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất đầu tiên đã được tổ chức.

HOÀNG Hồng-Minh chuyển ngữ