Để có thể đảm nhiệm 2 sứ mệnh đào tạo và nghiên cứu đem lại lợi ích cho toàn xã hội của mình, hệ thống đại học cần có được sự tụ hợp của nhiều điều kiện thuận lợi trong một quá trình phát triển lâu dài. Tuy nhiên, trong lịch sử, hệ thống ĐH không phải lúc nào cũng có được những điều kiện thuận lợi để phát triển, mà trái lại, luôn có các thế lực hay chính sách vì cố tình hay vô ý đã và đang hủy hoại nó.
Bỏ đói ĐH bằng nhiều cách
Không cần đàn áp các học giả hay phá hủy cơ sở vật chất, mà chỉ cần bỏ đói họ, không cung cấp đủ kinh phí cho các ĐH hoạt động, các ĐH cũng sẽ tự khắc xuống cấp, thoái hóa.
Sự bỏ đói dễ nhận thấy nhất, là khi các giáo sư ĐH được trả lương cực thấp so với các nghề khác, có khi thấp hơn cả nhân viên quèn ở các hãng tư nhân.
Thời Xô Viết, các nhà khoa học tuy không giàu, nhưng đủ sống và được chăm lo bao cấp nhiều khoản, không phải lo về vật chất, có thể yên tâm giảng dạy nghiên cứu khoa học. Bởi vậy đó là thời kỳ hoàng kim của khoa học Nga nói chung. Khi chính quyền Xô Viết sụp đổ, chế độ mới lên thay đã bỏ rơi giáo dục phổ thông và ĐH trong 2 thập kỷ 1990-2010, khiến cho GD và ĐT của Nga xuống cấp trầm trọng về chất lượng, đặc biệt là ĐH.
Trong khi kinh tế tư nhân ở Nga "bùng nổ", giá cả ở Matxcơva trở nên đắt đỏ loại nhất thế giới, và thu nhập trung bình của người dân Matxcơva cũng trở nên thuộc loại khá cao trên thế giới (chủ yếu nhờ vào xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có), thì thu nhập của giảng viên ĐH ở Nga chậm thay đổi, không theo kịp sự trượt giá.
Vào thời điểm 2010, lương giáo sư của MGU (ĐH danh giá nhất nước Nga) chỉ có khoảng 1000 USD một tháng, trong khi một kỹ sư máy tính xoàng cũng có thể được 2-3 nghìn USD/ tháng.
Hệ quả tất yếu của việc cắt giảm kinh phí là sự chảy máu chất xám.
Nếu như trước 1991 số lượng các nhà khoa học Nga "vượt biên" sang phương Tây còn tương đối hiếm (trừ những người gốc Do Thái đi khỏi Nga về Israel), thì trong suốt giai đoạn 1991-2010 có sự ra đi ồ ạt của các nhà khoa học Nga sang phương Tây và sang cả các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Những người còn ở lại Nga thì cũng thỉnh thoảng ra nước ngoài kiếm sống, bỏ rơi sinh viên trong nước, hoặc "chân trong chân ngoài". Hoặc tệ hơn là tham nhũng thoái hóa, bán điểm, làm luận án thuê, v.v. Nhiều GS hay tiến sĩ của Nga sẵn sàng viết thuê luận án, bán danh dự để nuôi thân.
Các nước Đông Âu như Ba Lan và Hungary, sau khi không còn XHCN và sáp nhập vào với Cộng đồng châu Âu, đã có chính sách tốt hơn trong quá trình chuyển đổi, không bỏ đói ĐH một cách tồi tệ như Nga. Nên các nhà khoa học ở các nước đó phần lớn yên tâm làm việc ở nước mình, không phải "chạy loạn" như các nhà khoa học Nga.
Tình hình ở Pháp tất nhiên không đến nỗi tồi như ở Nga, nhưng cán bộ ĐH hay nghiên cứu khoa học của Pháp cũng được trả lương khá thấp so với nhiều nước tiên tiến khác. Một tiến sĩ trẻ được nhận vào làm nghiên cứu viên CNRS ở Paris (là một công việc khá "danh giá") nhưng đi thuê nhà không thuê được, vì với mức lương CNRS như vậy không ai cho thuê cả.
Theo một thống kê, lương khởi điểm của "maitre de conference" ("giảng viên chính") ở Pháp bị giảm liên tục trong hơn 20 năm 1986-2008 sau khi đã trừ đi lạm phát (tức là lương tăng chậm hơn so với lạm phát). Lương năm 2008 chỉ có sức mua bằng khoảng 85% lương năm 1986, trong khi nền khi tế đi lên nhiều trong hơn 20 năm đó.
Chính phủ Pháp vào năm 2010 đang quan tâm hơn đến khoa học với những cải cách này nọ, nhưng về cơ bản thì giảng viên ĐH vẫn bị đối xử tệ. Ngay chính sách tài trợ nghiên cứu của Pháp hiện tại cũng không khuyến khích được mọi người tích cực nghiên cứu hơn. Nói một cách nôm na, đó là chính sách "20% tốt, 80% dốt" (tiếng Pháp: "20% de bons, 80% de cons").
Có nghĩa là người ta đặt ra một qui định khá máy móc tùy tiện: Chỉ có 20% số giảng viên ĐH xin tiền phụ cấp nghiên cứu được xếp hạng "tốt" và được phụ cấp nghiên cứu, thường trong quãng 4 nghìn đến 6 nghìn Euro/năm). Còn lại 80% GS, Phó GS, dù có tích cực nghiên cứu cũng không được phụ cấp, và điều này khiến cho nhiều người chán nản bỏ nghiên cứu.
Một xu hướng ở nhiều nước hiện nay là, mỗi khi Chính phủ có khó khăn về tài chính (chẳng hạn do phải vung tiền cứu giới tài chính sau khi giới này đầu cơ làm loạn tài chính và kinh tế thế giới), thì hệ thống ĐH là 1 trong những nơi dễ bị cắt giảm ngân sách nhất. Cắt giảm ngân sách cũng là một cách "bỏ đói" ĐH.
Dù rằng ĐH luôn là động lực để phát triển kinh tế về lâu dài, và kinh tế trước nay được hưởng rất nhiều từ ĐH, và hệ thống ĐH không phải là nơi gây ra các khó khăn khủng hoảng về kinh tế, nhưng trước mắt chỗ nào cắt được thì họ cứ cắt. Đối với nhiều nhà chính trị, các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu có ảnh hưởng tốt chung đến xã hội trong những lĩnh vực không đếm ra được ngay thành tiền (như văn hóa, nghệ thuật, tinh thần...) chẳng có ý nghĩa gì mấy, và ngân sách cho những chỗ đó càng dễ bị cắt giảm.
Việc cắt giảm kinh phí ĐH không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở các nước khác như Mỹ, Tây Ban Nha, v.v. với lý do "khó khăn kinh tế". Chẳng hạn ở Tây Ban Nha, các giảng viên ĐH đều bị giảm lương khoảng 6%. Một điều hơi khó hiểu là, Chính phủ Mỹ một mặt in tiền và tung các gói "kích cầu" khổng lồ nhằm vực kinh tế khỏi suy thoái. Nhưng một mặt lại cắt giảm kinh phí cho ĐH, mà ĐH chính là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Nếu như trong những thập kỷ trước, nước Mỹ thu hút được nhiều nhân tài từ các nước khác trên thế giới do đổ nhiều tiền vào ĐH, cho nhiều học bổng cho học sinh nước ngoài, v.v. thì ngày nay thế mạnh đó của Mỹ đang giảm đi (trong khi thế mạnh của Trung Quốc tăng lên).
Và thương mại hóa bằng nhiều cách
Hầu hết các ĐH lớn quan trọng nhất trên thế giới, dù là ĐH công như Cambridge hay ĐH tư như Princeton, đều là các ĐH phi lợi nhuận. Còn các ĐH vì lợi nhuận chỉ tạo thành một phần nhỏ của hệ thống ĐH. Lý do là, các ĐH là các tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội làm lợi chung cho toàn xã hội. Chính vì toàn bộ xã hội được ảnh hưởng rất lớn từ hệ thống ĐH, nên có thể coi ĐH là của cải chung của xã hội, và xã hội có trách nhiệm "nuôi" nó.
Các ĐH tư phi lợi nhuận do các doanh nhân giàu có bỏ tiền tài trợ, cũng là một hình thức đóng góp và gây ảnh hưởng đến xã hội của họ. Các ĐH vì lợi nhuận có vai trò nhất định trong xã hội, nhưng không đem lại được lợi công cho xã hội như là ĐH phi lợi nhuận, mà mục đích chính của chúng là đem lại lợi ích cho chủ sở hữu.
Các ĐH vì lợi nhuận sẽ chỉ chú trọng đầu tư vào những gì sinh lời nhanh chóng, mà không đầu tư vào những hướng nghiên cứu hay đào tạo có ảnh hưởng tốt lâu dài đến toàn xã hội. Bởi vậy, xã hội muốn được hưởng nhiều thành quả từ hệ thống ĐH, không thể dựa vào ĐH vì lợi nhuận, mà cần dựa vào ĐH phi lợi nhuận.
Cũng vì vậy, ở Việt Nam, khi một số chuyên gia kinh tế "xui" Chính phủ nên cổ phần hóa các ĐH công có quy mô lớn, là một ý tưởng sai lầm. Vì nó sẽ chỉ làm lợi cho một số tư nhân mà làm hại chung cho toàn đất nước.
Tuy nhiên, ở một số nước tư bản hiện nay, song song với xu hướng cắt giảm ngân sách nhà nước cho ĐH, đang có một xu hướng khá nguy hiểm là thương mại hóa ĐH, dần dần biến chúng thành các "công ty thương mại". Khi các ĐH không còn được Chính phủ hay tổ chức từ thiện cung cấp kinh phí, mà chủ yếu dựa vào hợp đồng với các hãng tư nhân vì lợi nhuận cho ngân sách khoa học của mình, thì việc nghiên cứu khoa học bị bóp méo đi. Các nghiên cứu có lợi chung cho xã hội bị bỏ rơi, "cha chung không ai khóc", chỉ có những nghiên cứu đem lại lợi tư được phát triển.
Sự tự do tư tưởng trong nghiên cứu cũng sẽ mất dần đi. Khái niệm "giáo sư" sẽ mất dần đi ý nghĩa "người thầy" cao quí của nó, mà dần dần biến thành nghĩa "người làm công ăn thuê cho các ông bà chủ nắm quyền ở ĐH".
Việc ĐH hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, để điều chỉnh công việc đào tạo và nghiên cứu cho thích hợp với nhu cầu xã hội, là việc tốt và cần thiết. Việc doanh nghiệp tài trợ cho ĐH, đổi lấy sự đảm bảo nguồn nhân lực trí thức và sự hỗ trợ về khoa học công nghệ, là việc tốt. Nhưng nếu ĐH trở nên quá phụ thuộc về kinh tế vào các doanh nghiệp tư, thì lại thành xu hướng nguy hiểm: Đó là xu hướng nô lệ về kinh tế, trở thành tay sai cho các quyền lợi tư, mất đi ảnh hưởng đến chung đến toàn xã hội.
Đại học Luxembourg (mới thành lập từ năm 2003 ở Luxembourg) là ĐH công, nhưng là một ví dụ về việc quản lý ĐH như một công ty thương mại. Trong cái "công ty thương mại" đó, GS chỉ là một nhân viên dưới quyền quản lý của cấp trên trực tiếp, và ngược lại là sếp của mấy cấp dưới trực tiếp (phụ giảng, postdoc), chứ không có được sự tôn trọng như là người thầy và sự tự do nghiên cứu như ở những nơi khác.
Một biểu hiện của xu hướng thương mại hóa nữa, là khi sinh viên được coi thành "khách hàng", quan hệ giữa trường ĐH và sinh viên không còn là một quan hệ có trách nhiệm xã hội trong đó, mà xuống cấp thành quan hệ thương mại "kẻ mua - người bán". Khách hàng là "thượng đế", nên ĐH sẽ ra sức "chiều" sinh viên, đổi "điểm tốt" lấy tiền. Giảng viên không dám kỷ luật sinh viên không nghiêm túc hay cho điểm xấu những sinh viên học kém, vì sợ làm "mếch lòng thượng đế".
Hậu quả là lạm phát văn bằng, chất lượng đào tạo không đảm bảo, Học ấm ớ vẫn có đủ các thứ bằng cấp miễn là nộp đủ tiền. Xu hướng thương mại hóa cũng góp phần tạo rào cản cho những sinh viên học giỏi nhưng ít tiền không vào được ĐH (kể cả ĐH công), trong khi con nhà giàu học dốt thì được nhận học. Hệ quả là vừa lãng phí đầu tư công và lãng phí tiềm năng xã hội, vừa làm tăng khoảng cách phân biệt giàu nghèo.
Khi xã hội và các nhà hảo tâm nhớ đến các ĐH vì thành tích "tiêu khiển tốt", thay vì các đóng góp về đào tạo và nghiên cứu, thì giá trị đích thực của ĐH đã bị giảm đi.
Bỏ đói ĐH bằng nhiều cách
Không cần đàn áp các học giả hay phá hủy cơ sở vật chất, mà chỉ cần bỏ đói họ, không cung cấp đủ kinh phí cho các ĐH hoạt động, các ĐH cũng sẽ tự khắc xuống cấp, thoái hóa.
Sự bỏ đói dễ nhận thấy nhất, là khi các giáo sư ĐH được trả lương cực thấp so với các nghề khác, có khi thấp hơn cả nhân viên quèn ở các hãng tư nhân.
Thời Xô Viết, các nhà khoa học tuy không giàu, nhưng đủ sống và được chăm lo bao cấp nhiều khoản, không phải lo về vật chất, có thể yên tâm giảng dạy nghiên cứu khoa học. Bởi vậy đó là thời kỳ hoàng kim của khoa học Nga nói chung. Khi chính quyền Xô Viết sụp đổ, chế độ mới lên thay đã bỏ rơi giáo dục phổ thông và ĐH trong 2 thập kỷ 1990-2010, khiến cho GD và ĐT của Nga xuống cấp trầm trọng về chất lượng, đặc biệt là ĐH.
Trong khi kinh tế tư nhân ở Nga "bùng nổ", giá cả ở Matxcơva trở nên đắt đỏ loại nhất thế giới, và thu nhập trung bình của người dân Matxcơva cũng trở nên thuộc loại khá cao trên thế giới (chủ yếu nhờ vào xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có), thì thu nhập của giảng viên ĐH ở Nga chậm thay đổi, không theo kịp sự trượt giá.
Vào thời điểm 2010, lương giáo sư của MGU (ĐH danh giá nhất nước Nga) chỉ có khoảng 1000 USD một tháng, trong khi một kỹ sư máy tính xoàng cũng có thể được 2-3 nghìn USD/ tháng.
Hệ quả tất yếu của việc cắt giảm kinh phí là sự chảy máu chất xám.
Nếu như trước 1991 số lượng các nhà khoa học Nga "vượt biên" sang phương Tây còn tương đối hiếm (trừ những người gốc Do Thái đi khỏi Nga về Israel), thì trong suốt giai đoạn 1991-2010 có sự ra đi ồ ạt của các nhà khoa học Nga sang phương Tây và sang cả các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Những người còn ở lại Nga thì cũng thỉnh thoảng ra nước ngoài kiếm sống, bỏ rơi sinh viên trong nước, hoặc "chân trong chân ngoài". Hoặc tệ hơn là tham nhũng thoái hóa, bán điểm, làm luận án thuê, v.v. Nhiều GS hay tiến sĩ của Nga sẵn sàng viết thuê luận án, bán danh dự để nuôi thân.
Các nước Đông Âu như Ba Lan và Hungary, sau khi không còn XHCN và sáp nhập vào với Cộng đồng châu Âu, đã có chính sách tốt hơn trong quá trình chuyển đổi, không bỏ đói ĐH một cách tồi tệ như Nga. Nên các nhà khoa học ở các nước đó phần lớn yên tâm làm việc ở nước mình, không phải "chạy loạn" như các nhà khoa học Nga.
![]() |
Giảng viên đại học và sinh viên biểu tình tại thủ đô London (Anh). Ảnh: Getty Images |
Theo một thống kê, lương khởi điểm của "maitre de conference" ("giảng viên chính") ở Pháp bị giảm liên tục trong hơn 20 năm 1986-2008 sau khi đã trừ đi lạm phát (tức là lương tăng chậm hơn so với lạm phát). Lương năm 2008 chỉ có sức mua bằng khoảng 85% lương năm 1986, trong khi nền khi tế đi lên nhiều trong hơn 20 năm đó.
Chính phủ Pháp vào năm 2010 đang quan tâm hơn đến khoa học với những cải cách này nọ, nhưng về cơ bản thì giảng viên ĐH vẫn bị đối xử tệ. Ngay chính sách tài trợ nghiên cứu của Pháp hiện tại cũng không khuyến khích được mọi người tích cực nghiên cứu hơn. Nói một cách nôm na, đó là chính sách "20% tốt, 80% dốt" (tiếng Pháp: "20% de bons, 80% de cons").
Có nghĩa là người ta đặt ra một qui định khá máy móc tùy tiện: Chỉ có 20% số giảng viên ĐH xin tiền phụ cấp nghiên cứu được xếp hạng "tốt" và được phụ cấp nghiên cứu, thường trong quãng 4 nghìn đến 6 nghìn Euro/năm). Còn lại 80% GS, Phó GS, dù có tích cực nghiên cứu cũng không được phụ cấp, và điều này khiến cho nhiều người chán nản bỏ nghiên cứu.
Khi các ĐH không còn được Chính phủ hay tổ chức từ thiện cung cấp kinh phí, mà chủ yếu dựa vào hợp đồng với các hãng tư nhân vì lợi nhuận cho ngân sách khoa học của mình, thì việc nghiên cứu khoa học bị bóp méo đi, các nghiên cứu có lợi chung cho xã hội bị bỏ rơi, "cha chung không ai khóc", chỉ có những nghiên cứu đem lại lợi tư được phát triển. |
Dù rằng ĐH luôn là động lực để phát triển kinh tế về lâu dài, và kinh tế trước nay được hưởng rất nhiều từ ĐH, và hệ thống ĐH không phải là nơi gây ra các khó khăn khủng hoảng về kinh tế, nhưng trước mắt chỗ nào cắt được thì họ cứ cắt. Đối với nhiều nhà chính trị, các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu có ảnh hưởng tốt chung đến xã hội trong những lĩnh vực không đếm ra được ngay thành tiền (như văn hóa, nghệ thuật, tinh thần...) chẳng có ý nghĩa gì mấy, và ngân sách cho những chỗ đó càng dễ bị cắt giảm.
Việc cắt giảm kinh phí ĐH không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở các nước khác như Mỹ, Tây Ban Nha, v.v. với lý do "khó khăn kinh tế". Chẳng hạn ở Tây Ban Nha, các giảng viên ĐH đều bị giảm lương khoảng 6%. Một điều hơi khó hiểu là, Chính phủ Mỹ một mặt in tiền và tung các gói "kích cầu" khổng lồ nhằm vực kinh tế khỏi suy thoái. Nhưng một mặt lại cắt giảm kinh phí cho ĐH, mà ĐH chính là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Nếu như trong những thập kỷ trước, nước Mỹ thu hút được nhiều nhân tài từ các nước khác trên thế giới do đổ nhiều tiền vào ĐH, cho nhiều học bổng cho học sinh nước ngoài, v.v. thì ngày nay thế mạnh đó của Mỹ đang giảm đi (trong khi thế mạnh của Trung Quốc tăng lên).
Và thương mại hóa bằng nhiều cách
Hầu hết các ĐH lớn quan trọng nhất trên thế giới, dù là ĐH công như Cambridge hay ĐH tư như Princeton, đều là các ĐH phi lợi nhuận. Còn các ĐH vì lợi nhuận chỉ tạo thành một phần nhỏ của hệ thống ĐH. Lý do là, các ĐH là các tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội làm lợi chung cho toàn xã hội. Chính vì toàn bộ xã hội được ảnh hưởng rất lớn từ hệ thống ĐH, nên có thể coi ĐH là của cải chung của xã hội, và xã hội có trách nhiệm "nuôi" nó.
Các ĐH tư phi lợi nhuận do các doanh nhân giàu có bỏ tiền tài trợ, cũng là một hình thức đóng góp và gây ảnh hưởng đến xã hội của họ. Các ĐH vì lợi nhuận có vai trò nhất định trong xã hội, nhưng không đem lại được lợi công cho xã hội như là ĐH phi lợi nhuận, mà mục đích chính của chúng là đem lại lợi ích cho chủ sở hữu.
Các ĐH vì lợi nhuận sẽ chỉ chú trọng đầu tư vào những gì sinh lời nhanh chóng, mà không đầu tư vào những hướng nghiên cứu hay đào tạo có ảnh hưởng tốt lâu dài đến toàn xã hội. Bởi vậy, xã hội muốn được hưởng nhiều thành quả từ hệ thống ĐH, không thể dựa vào ĐH vì lợi nhuận, mà cần dựa vào ĐH phi lợi nhuận.
Cũng vì vậy, ở Việt Nam, khi một số chuyên gia kinh tế "xui" Chính phủ nên cổ phần hóa các ĐH công có quy mô lớn, là một ý tưởng sai lầm. Vì nó sẽ chỉ làm lợi cho một số tư nhân mà làm hại chung cho toàn đất nước.
Tuy nhiên, ở một số nước tư bản hiện nay, song song với xu hướng cắt giảm ngân sách nhà nước cho ĐH, đang có một xu hướng khá nguy hiểm là thương mại hóa ĐH, dần dần biến chúng thành các "công ty thương mại". Khi các ĐH không còn được Chính phủ hay tổ chức từ thiện cung cấp kinh phí, mà chủ yếu dựa vào hợp đồng với các hãng tư nhân vì lợi nhuận cho ngân sách khoa học của mình, thì việc nghiên cứu khoa học bị bóp méo đi. Các nghiên cứu có lợi chung cho xã hội bị bỏ rơi, "cha chung không ai khóc", chỉ có những nghiên cứu đem lại lợi tư được phát triển.
![]() |
Đại học là một ví dụ về việc quản lý ĐH như một công ty thương mại |
Việc ĐH hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, để điều chỉnh công việc đào tạo và nghiên cứu cho thích hợp với nhu cầu xã hội, là việc tốt và cần thiết. Việc doanh nghiệp tài trợ cho ĐH, đổi lấy sự đảm bảo nguồn nhân lực trí thức và sự hỗ trợ về khoa học công nghệ, là việc tốt. Nhưng nếu ĐH trở nên quá phụ thuộc về kinh tế vào các doanh nghiệp tư, thì lại thành xu hướng nguy hiểm: Đó là xu hướng nô lệ về kinh tế, trở thành tay sai cho các quyền lợi tư, mất đi ảnh hưởng đến chung đến toàn xã hội.
Đại học Luxembourg (mới thành lập từ năm 2003 ở Luxembourg) là ĐH công, nhưng là một ví dụ về việc quản lý ĐH như một công ty thương mại. Trong cái "công ty thương mại" đó, GS chỉ là một nhân viên dưới quyền quản lý của cấp trên trực tiếp, và ngược lại là sếp của mấy cấp dưới trực tiếp (phụ giảng, postdoc), chứ không có được sự tôn trọng như là người thầy và sự tự do nghiên cứu như ở những nơi khác.
Một biểu hiện của xu hướng thương mại hóa nữa, là khi sinh viên được coi thành "khách hàng", quan hệ giữa trường ĐH và sinh viên không còn là một quan hệ có trách nhiệm xã hội trong đó, mà xuống cấp thành quan hệ thương mại "kẻ mua - người bán". Khách hàng là "thượng đế", nên ĐH sẽ ra sức "chiều" sinh viên, đổi "điểm tốt" lấy tiền. Giảng viên không dám kỷ luật sinh viên không nghiêm túc hay cho điểm xấu những sinh viên học kém, vì sợ làm "mếch lòng thượng đế".
Hậu quả là lạm phát văn bằng, chất lượng đào tạo không đảm bảo, Học ấm ớ vẫn có đủ các thứ bằng cấp miễn là nộp đủ tiền. Xu hướng thương mại hóa cũng góp phần tạo rào cản cho những sinh viên học giỏi nhưng ít tiền không vào được ĐH (kể cả ĐH công), trong khi con nhà giàu học dốt thì được nhận học. Hệ quả là vừa lãng phí đầu tư công và lãng phí tiềm năng xã hội, vừa làm tăng khoảng cách phân biệt giàu nghèo.
Khi xã hội và các nhà hảo tâm nhớ đến các ĐH vì thành tích "tiêu khiển tốt", thay vì các đóng góp về đào tạo và nghiên cứu, thì giá trị đích thực của ĐH đã bị giảm đi.
- Theo Tia Sáng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét