Powered By Blogger

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

Trả tự do cho bị cáo hai lần bị tuyên tử hình

Sau 3 ngày nghị án, sáng 24/5, hội đồng xét xử (HĐXX) vụ án “vườn mít" đã tuyên bị cáo Lê Bá Mai không phạm tội hiếp dâm trẻ em và giết người và tuyên trả tự do cho Lê Bá Mai ngay tại tòa.
Ngay sau đó, bị cáo Mai đã ký biên bản và nhận quyết định trả tự do. Mai được gia đình, người thân đón về trang trại nơi Mai làm thuê thời điểm xảy ra vụ án. Như vậy, bị cáo Lê Bá Mai đã được xử trắng án sau hơn 7 năm bị giam giữ và hai lần bị kết tội tử hình.
 
Lê Bá Mai (áo trắng)
 
Trước đó, Viện KSND tỉnh Bình Phước đã đề nghị HĐXX tuyên phạt Lê Bá Mai từ 16-18 năm  tù về tội “hiếp dâm trẻ em” và tử hình về tội “giết người”.
Theo cáo trạng, ngày 12-11-2004 Lê Bá Mai đã hiếp dâm và giết em Thị Út (11 tuổi) tại khu vườn mít khi Út và chị là Thị Hằng, 13 tuổi đang đi mót củ sắn.
Năm 2005, hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là TAND tỉnh Bình Phước và TAND tối cao tại TP.HCM đều tuyên án tử hình Lê Bá Mai.
Thay vì làm đơn xin ân xá, Lê Bá Mai liên tục viết đơn kêu oan. Cuối năm 2006, viện trưởng Viện KSND tối cao đã ra kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị điều tra bổ sung. Ngày 22-5-2007, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã ra quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm của tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM và bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Phước. Trả hồ sơ các cơ quan tố tụng điều tra lại.
Sau một thời gian điều tra lại, ngày 30-11-2010, Viện KSND tỉnh Bình Phước có văn bản cho rằng kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi vụ án. Vì vậy, cơ quan này giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với Lê Bá Mai về các tội danh trên.
Trong phần tuyên án, HĐXX xét xử cho rằng đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, nếu có tội, bị cáo có thể sẽ chịu hình phạt cao nhất là tử hình nhưng cơ quan điều tra đã thực hiện không đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong việc chứng minh tội phạm, chỉ căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo mà bỏ qua nhiều chứng cứ khác.
Theo luật quy định: lời nhận tội của bị cáo chỉ có thể coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra có một số vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ các dấu vết, vật chứng cũng như việc giao nhận, bảo quản các vật chứng.
Cơ quan điều tra cũng chưa điều tra đầy đủ các yêu cầu theo quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, dù tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ.
Tại tòa, đại diện viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo hai tội hiếp dâm trẻ em và giết người nhưng không lý giải được một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và thống nhất các mâu thuẫn như đã đề cập. Do đó, chưa đủ chứng cứ vững chắc để kết tội Lê Bá Mai.
Tòa ghi nhận quan điểm của các luật sư bào chữa cho bị cáo đưa ra các mâu thuẫn và xác định bị cáo không phạm tội là có căn cứ, được HĐXX chấp nhận. Vì vậy, cần tuyên bị cáo không phạm tội và tuyên trả tự do bị cáo tại phiên tòa, khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp cho Lê Bá Mai.
Theo Minh Luận - Bùi Liêm
Tuổi Trẻ

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

Những người giàu bất an…

"Tín tài" trong làm giàu
Trong 7 thứ tài sản, Đức Phật xem "hổ thẹn" cũng là 1 thứ tài sản. Một người nếu cứ làm đầy kho tiền của mình bất chấp việc tàn phá môi trường, gây ra những đau khổ cho người khác mà không hề khởi lên 1 sự hổ thẹn nào thì dù có vẻ hào nhoáng bên ngoài như thế nào, anh ta cũng không thể trở thành người giàu. Một người gây hại trầm trọng cho tập thể, cho quốc gia, làm thất thoát tài sản của dân mà không biết hổ thẹn nhận trách nhiệm, thì tự mình đánh mất niềm tin và sự kỳ vọng của dân chúng.
Chính sự hổ thẹn sẽ đem đến những điều chỉnh tích cực để anh ta xây dựng lại hình ảnh của chính mình, và mọi điều vẫn chưa trở nên quá muộn. Chẳng phải ngẫu nhiên, trong 7 thứ tài sản đó, Đức Phật lại đặt "Tín tài" lên hàng đầu. Hiện nay không ít doanh nhân đã nhận thức được chữ tín là tiêu chí hàng đầu để xây dựng thương hiệu. Một thương hiệu mà chữ tín được củng cố thì lợi nhuận sẽ gia tăng tương ứng. Nếu 1 quốc gia mà mọi người đều biết khởi sự làm giàu bằng chữ tín, thì tin chắc rằng sự sáng tạo sẽ thăng hoa và ít ai phải tham nhũng, đưa hối lộ để làm giàu bất chính.
Chữ tín sẽ đem đến sự công bằng. Một khi niềm tin giữa doanh nghiệp và Nhà nước, giữa Nhà nước và doanh nghiệp có với nhau thì kho công, kho tư đều cùng đầy lên, đồng nghĩa với việc Nhà nước có nhiều điều kiện hơn để hoàn thiện các chính sách giúp các doanh nghiệp phát triển.
Việc tăng GDP làm sao để chất lượng sống của người dân được nâng cao, nằm ở chính sự lương thiện của cả 2 phía và ý chí làm giàu chân chính của cả cộng đồng. Các công ty đừng khai khống thuế thì sẽ làm đầy cho ngân quỹ của quốc gia. Nhưng thử hỏi làm đầy cho ngân quỹ như thế nào khi tham nhũng trở thành quốc nạn. Khi những người giữ vai trò quản lý không có sự trong sạch để tạo niềm tin về khối tải sản được chi dùng hợp lý cho các công việc quan trọng của quốc gia và lợi ích cộng đồng?
Nếu sự vận hành của Nhà nước và doanh nghiệp đúng chuẩn mực thì lợi ích cho cả hai phía sẽ không ngừng tăng lên. Khi ấy lương công nhân và các phúc lợi xã hội cũng sẽ tăng theo cùng với niềm tin xã hội. Nếu có ai hỏi Việt Nam có bao nhiêu người giàu, lập tức sẽ có vô số thống kê nhanh nhảu chỉ đích danh ông nọ bà kia, nhưng tin chắc khó ai có thể trả lời chính xác về khối tài sản ấy có được là nhờ vào việc làm ăn chính đáng, minh bạch hay không?
Những con cá săn mồi đều phải đuổi theo những con mồi để đớp nhanh. Và trong hàng đàn những con săn mồi sẽ có con no bụng trước vì đớp trúng mồi nhờ kỹ thuật, kinh nghiệm và đôi khi nhờ cả vào sự may mắn nữa. Tất cả mọi kỹ năng săn mồi được đưa ra để làm giàu thêm cho kinh nghiệm kiếm mồi. Nhưng sự đầy bụng của những con cá lớn luôn đi cùng sự giảm sút số lượng của những con cá bé. Dù đó là quy luật sinh tồn trong tự nhiên, nhưng thông thường những con cá lớn thì vẫn ít nguy hiểm, rủi ro hơn. Đây cũng là lý do mà người ta thường ví, người giàu thì giàu thêm, người nghèo thì ngày càng bần cùng, khố rách.
Nguồn: Getty Image
Người giầu và cộng đồng
Trong tự nhiên là như vậy, còn ở xã hội loài người thì mọi phát triển đều cần dựa trên sự công bằng, chính sự công bằng tách quy luật của con người ra khỏi quy luật hoang dã (cá lớn nuốt cá bé). Bởi cái làm nên phần người là cái thúc giục con người phải văn minh, phải biết vượt ra khỏi sự hoang dã để sống với phần người nhiều hơn nữa.
Người biết đem tài sản chia sẻ cho lợi ích chính đáng của cộng đồng, cũng nên là người hiểu đồng tiền, quý giá trị của đồng tiền. Đôi khi cũng phải biết xem nó gắn liền với khúc ruột của mình, tức phải hiểu những khó khăn, vất vả, cơ cực của việc kiếm tiền. Có như vậy mới có thể sử dụng đồng tiền sao cho có ích nhất trong việc nâng cao các giá trị và phẩm chất của cộng đồng.
Và chỉ khi có trí tuệ sáng suốt, nhìn ra tương quan nhân quả thì mới có thể cắt khúc ruột của mình cho người khác mà không đau tiếc, không do dự. Biết tặng khúc ruột ấy vào 1 cơ thể có thể ý chí sống vươn lên. Biết tận dụng khúc ruột được trao tặng ấy để sống tiếp một cuộc đời đáng sống thì chính khi ấy, doanh nhân kia đã giàu lên nhờ đạt được "thí tài".
Một người làm giàu không lương thiện, không thể làm chủ được đồng tiền bằng chính tài năng và sức lực của mình, mới là người bất an nhất trên cuộc đời này. Thử hỏi một người luôn bất an thì làm sao có thể đem an vui thực sự đến cho người khác? Một người chưa có đủ những định mức và tiêu chí cần thiết để trở thành người giàu khi còn khuyết rất nhiều thứ tài sản tối thiểu và cần thiết khác. Nhưng xã hội cứ thản nhiên tung hê anh ta là "người giàu", chẳng phải điều đó đang làm méo mó hình ảnh của một lớp người đang ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội hay sao?
Đồng tiền, cách sử dụng đồng tiền và 7 thứ tài sản để 1 người có thể sống không nghèo khổ, không trống rỗng được Đức Phật nói đến từ hơn 2.500 năm trước, luôn là những điều kiện cần thiết để tạo dựng hình ảnh của một người giàu đúng nghĩa.
Nếu cắt khúc ruột cho một kẻ đã băng hoại và mất hết ý chí sống, thì lòng từ bi dù có cao cả đến bao nhiêu cũng chỉ là việc làm phung phí tài sản. Còn những người chỉ biết đóng vai từ thiện để mua về những thứ danh hão, lợi dụng vào việc thiện để tiêu thụ hàng rởm, làm lợi cho bản thân mình thì xét ở góc độ sở hữu 7 thứ tài sản như đã nêu ở trên, họ còn cách rất xa tầm vươn tới địa vị của một người giàu.
Có những người ban đầu cũng nỗ lực sử dụng đồng tiền một cách minh bạch, nhưng không đủ sức kiên nhẫn khi nhìn thấy người khác giàu lên nhanh hơn mình. Thế là họ nghĩ rằng làm ăn chính đáng thì thiệt thòi, cần phải gian lận, luồn lách thì mới mau giàu. Ngay khi suy nghĩ thiếu lương thiện ấy xuất hiện, họ rớt ra khỏi địa vị của người giàu, và đồng tiền đã chính thức sai xử họ, làm chủ nhân của họ.
Một người làm giàu không lương thiện, không thể làm chủ được đồng tiền bằng chính tài năng và sức lực của mình, mới là người bất an nhất trên cuộc đời này. Thử hỏi một người luôn bất an thì làm sao có thể đem an vui thực sự đến cho người khác? Một người chưa có đủ những định mức và tiêu chí cần thiết để trở thành người giàu khi còn khuyết rất nhiều thứ tài sản tối thiểu và cần thiết khác. Nhưng xã hội cứ thản nhiên tung hê anh ta là "người giàu", chẳng phải điều đó đang làm méo mó hình ảnh của một lớp người đang ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội hay sao?
Đồng tiền, cách sử dụng đồng tiền và 7 thứ tài sản để 1 người có thể sống không nghèo khổ, không trống rỗng được Đức Phật nói đến từ hơn 2.500 năm trước, luôn là những điều kiện cần thiết để tạo dựng hình ảnh của một người giàu đúng nghĩa.
Có thể không ít doanh nhân sẽ cảm thấy không đồng tình với 1 số điều chúng tôi vừa nêu. Nhưng người viết bài này vẫn giữ quan điểm rằng, chừng nào người tiêu dùng còn làm giàu cho doanh nghiệp nhiều hơn những gì mà doanh nghiệp đang làm cho cộng đồng, thì cái danh xưng "người giàu" vẫn rất cần phải được suy nghĩ thêm cho chín chắn.
Doanh nhân chân chính thì không thể là những người "làm giả ăn thật". Họ buộc phải "làm thật ăn thật" bằng ý thức trách nhiệm, không chỉ của 1 giai tầng mới, mà còn của 1 giai tầng biết dẫn đầu cho mọi khát vọng sống. Cái mới nào cũng rất cần niềm tin nơi mỗi chúng ta. Và để có được niềm tin ấy, điều đầu tiên mà mỗi doanh nhân phải làm, không gì khác hơn là hoàn thiện "Tín tài".

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Để “mọi quyền hành, lực lượng đều nơi dân”

Hồ Chí Minh đã khẳng định "quyền hành và lực lượng đều nơi dân" là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình dựng nước.
>>Hồ Chí Minh với bầu cử Quốc hội
Cách đây 64 năm, Hồ Chí Minh từng chân thành bộc bạch : "Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận".1 Chắc không dễ để "xin thừa nhận khuyết điểm đó", nhưng Hồ Chí Minh đã công khai viết điều đó lên báo.
Hôm nay, liệu có thể nói như Hồ Chí Minh : trong gần chín chục triệu người, chắc không thiếu người có tài có đức. Học theo Hồ Chí Minh, nếu vào dịp này, đưa được những người tài đức ấy tham gia vào "cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất" sẽ càng làm cho nhà nước của dân, do dân và vì dân càng có ý nghĩa thực tế chứ không là một khẩu hiệu suông.
Để làm được điều này, cùng với những điều vừa nêu, cần hiểu thật rõ về pháp quyền và nhà nước pháp quyền, điều mà Hồ Chí Minh đã nêu ra từ rất sớm như vừa trích dẫn ở trên.
Dân chủ phải được đảm bảo bằng luật pháp
Trong lịch sử của xã hội loài người, quyền con người và quyền công dân là những vấn đề có ý nghĩa bức xúc về thực tiễn cũng như về lý luận vì theo J.J Rousseau, nhà tư tưởng của thế kỷ khai sang : "Con người sinh ra đã là tự do, vậy mà ở khắp mọi nới con người lại bị cùm kẹp".
Từ khi cuốn "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, trong tư duy của loài người, quyền lực dường như vô hạn của vua, chúa đã bị hạ bệ với việc khẳng định quyền của dân, xuất phát từ dân, Nhà nước được xem như là người ký hợp đồng với quốc dân. Vậy là, trong trạng thái tự nhiên, con người sinh ra đã là bình đẳng, nhưng khi hợp thành xã hội, con người mất bình đẳng. Và rồi con người "chỉ trở lại bình đẳng nhờ có luật pháp". Đó là tuyên ngôn của những nhà "Khai Sáng".
Sự bình đẳng song hành cùng với tự do. Đương nhiên, trong liên hệ gắn kết với luật pháp của chế độ dân chủ, có mối liên hệ đan xen trực tiếp với tự do, mà tự do luôn là phạm trù chính trị -xã hội mang tính lịch sử cụ thể. Tuỳ trình độ của sản xuất và thành tựu của văn minh mà từng giai đoạn lịch sử khát vọng tự do của con người có thể thực hiện được đến đâu. Hồ Chí Minh thấm thía điều đó. Và từ sự nung nấu ấy mà trọn vẹn cả cuộc đời, Hồ Chí Minh dành cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho con người, thực hiện lý tưởng "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", đó là sự đúc kết khát vọng của con người, của loài người.
Trên con đường thực hiện mục tiêu cao cả đó, có không biết bao nhiêu trở ngại cần phải vượt qua. Trong đó, oái oăm thay, có những trở ngại do chính sự lạc hậu và lạc điệu của nhận thức về con đường thực hiện khát vọng tự do đích thực, về phương thức đấu tranh để giành tự do và thực hiện tự do cho con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể chứ không phải bằng những giáo điều đã học thuộc lòng nhưng đã bị cuộc sống vứt bỏ. Và rồi người ta sớm nhận ra một sự thật : nơi đâu luật pháp chưa được xác lập một cách công khai và minh bạch,được thực hiện một cách quang minh chính đại, nơi ấy chưa thể có tự do.
Với Montesquieu, dân chủ không chỉ là sự kết hợp được dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà là một nền dân chủ có sự ước chế lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội, một nền dân chủ được cụ thể hoá và được bảo đảm bằng pháp luật. Bước ngoặt mà nhà "khai sáng thuộc thế hệ thứ nhất" này tạo ra trong triết học chính trị và trong quan niệm về dân chủ được hiểu là dân chủ pháp quyền. Cũng có nghĩa là dân chủ chỉ có thể được thực thi khi người dân có một nhà nước đảm đương được sứ mệnh cao cả quản lý và hướng dẫn sự vận hành của mọi họat động xã hội. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng vĩ đại này được khởi nguồn từ diễn văn của Abraham Lincoln đọc tại nghĩa trang quốc gia Gettysburg của nước Mỹ ngày 19.11.1863 : "...chúng ta ở đây có quyết tâm cao độ để cho những người đã ngã xuống sẽ không chết một cách oan  uổng - rằng quốc gia này  sẽ có một cuộc sinh đẻ mới của tự do - và rằng chính quyền này của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, sẽ không biến mất khỏi trái đất này...". Tinh thần cơ bản của nó chính là kiểm soát quyền lực nhà nước là nội dung, cấu trúc và là tiêu chí của nền dân chủ. Quyền lực nhà nước ấy hướng tới sự bình đẳng, tự do, công lý và khoan dung. Đó chính là khát vọng của con người về một xã hội được tổ chức để cho con người có thể sống hạnh phúc.
Và cũng phải nói thêm rằng, có lẽ không nhiều dân tộc trên trái đất này từng phải trả một giá xương máu quá đắt như dân tộc ta để có được một nhà nước của dân , do dân và vì dân đích thực, để rồi khi cầm lá phiếu bầu những người đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ấy, mỗi người công dân với tư cách là một cử tri sẽ phải tự nhủ rằng "chúng ta ở đây phải có quyết tâm cao độ để cho những người đã ngã xuống sẽ không chết một cách oan uổng".
Pháp quyền ở trên Nhà nước
Để đảm bảo cho điều đó, phải xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực. Mà vấn đề cơ bản nhất, cũng là tư tưởng chủ đạo của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước. Theo nguyên lý của tư tưởng pháp quyền đó, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc "tam quyền phân lập". Mục đích của sự phân quyền đó là trong cơ cấu quyền lực có sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau nhằm tránh sự độc quyền, lạm quyền. Nhà nước và công chức chỉ làm được những điều luật pháp cho phép còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không cấm. Để đảm bảo dân uỷ quyền mà không mất quyền, không bị tiếm quyền thì công việc của nhà nước và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền tham gia vào việc hoạch định pháp luật, giám sát và kiểm soát. Toàn bộ những ý tưởng lớn đó được xác lập từ sự phân biệt giữa "nhà nước pháp quyền" với tất cả các kiểu loại nhà nước trước đó trong lịch sử loài người.
Nền tảng được xác lập để phân biệt thật rạch ròi chỉ ở một điểm : với nhà nước pháp quyền, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đây là xuất phát điểm để xác lập sự khác biệt căn bản giữa nhà nước pháp quyền với các kiểu loại nhà nước không pháp quyền.
Ở các kiểu loại nhà nước không pháp quyền, mệnh lệnh được ban ra trực tiếp từ chủ thể nắm giữ quyền lực dưới các hình thức như chiếu chỉ, sắc dụ, sắc lệnh, nghị quyết...thành văn bản hay mệnh lệnh được phát ngôn, đều là những mệnh lệnh tuyệt đối một chiều từ trên xuống, không có sự phản hồi, càng không thể có sự phản biện xã hội dưới bất cứ hình thức nào, hoặc nếu có thì chỉ là hình thức mị dân. Ở đó, quyền lực được tập trung vào độc quyền cá nhân (nhà vua) hay một nhóm người định đoạt mọi vấn đề của đất nước. Đồng thời, sự chuyển giao quyền lực giữa các chủ thể quyền lực là cơ chế nối truyền (gia đình, dòng tộc, các nhóm quyền lực cùng lợi ích), quần chúng nhân dân đứng ngoài tiến trình này. Hoàn toàn ngược lại với những điều ấy, với nhà nước pháp quyền, quyền lực là của nhân dân và chỉ ở nhân dân mà thôi.
Quyền hành và lực lượng đều nơi dân
Hồ Chí Minh đã khẳng định "quyền hành và lực lượng đều nơi dân" là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình dựng nước. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nghiêm khắc vạch ra : "Dân chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" 9. Dựa vào đâu mà thực hiện điều "động trời" này? Dựa vào "pháp quyền". Đây là một cột mốc trong tư tưởng về nhà nước.
Tư tưởng ấy chính là nền tảng của nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh là người đặt những viên gạch đầu tiên. Tuy nhiên, mãi đến Đại hội VIII của Đảng, khái niệm "nhà nước pháp quyền" mới chính thức đi vào đời sống chính trị của nước ta, đánh dấu một cột mốc trong tư duy về Nhà nước của Đảng trở lại với nguyên lý mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ những ngày chính quyền cách mạng còn trong trứng nước. Và Hồ Chí Minh đã chứng minh sống động tư tưởng ấy trong thực tiễn của cách mạng, kháng chiến và xây dựng đất nước.
Quá trình đến được với tư tưởng nhà nước pháp quyền, từ lúc manh nha cho đến lúc chính thức được đưa vào Hiến pháp sửa đổi, vào Nghị quyết phải mất hơn nửa thế kỷ, là một minh chứng quá cụ thể và không kém phần xót xa. Mặc dầu với tầm cao của tư duy Hồ Chí Minh, tư tưởng nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong Tuyên Ngôn Độc Lập 2.9.1945, trong Hiến pháp 1946, nhưng rồi sau đó nó bị chìm đi cho mãi đến mươi năm trở lại đây mới chính thức được khẳng định trở lại.
Khi đất nước chúng ta đang đẩy tới quá trình hội nhập đi vào chiều sâu với vị thế mới trên trường quốc tế và khu vực thì cùng với những phấn đấu không mệt mỏi trong phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của nhân dân ta, mức sống vật chất và mức sống tinh thần, thì việc xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực với nền móng vững chắc của nó như một số quốc gia đã đạt tới là một đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Xét đến cùng, những "cam kết" với quốc tế không gì khác là những ràng buộc về pháp lý. Đó là một trong những thử thách lớn nhất khi nước ta chủ động dấn bước trên con đường hội nhập mà bước ngoặt quan trọng là gia nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới. Khi đã là thành viên thứ 150 của WTO rồi, thì thực hiện những cam kết không những là nghĩa vụ mà còn là danh dự quốc gia, trong khi đó, chất lượng pháp luật và năng lực thể chế lại là cái mà chúng ta đang phải khắc phục những yếu kém để có thể không lạc hậu và lạc điệu với các chuẩn mực quốc tế.
Chỉ cần dẫn ra những điều mà có lần một vị Chánh án TANDTC tường trình về sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ thẩm phán, những người nắm "cán cân công lý", khiến phải "cố vơ vét, bổ nhiệm cho đủ" là có thể thấy rõ điều đó. Thậm chí "có khi lái xe, đánh máy đưa lên làm thẩm phán. Thế là lại phải cho họ đi học tại chức rồi về phải"đôn" họ lên"! Không chỉ có thế, "về hệ thống pháp luật, chúng ta đã cố gắng làm rất nhiều nhưng có phải tất cả các lĩnh vực xã hội đều đã có pháp luật điều chỉnh đâu. Các luật chuyên ngành có mâu thuẫn với luật gốc, luật cơ bản hay không? Các quy phạm đã rõ ràng, rành mạch, hiểu theo một nghĩa chưa? Một quy định mà công an hiểu thế này, viện kiểm sát hiểu thế kia, tòa án hiểu thế khác, hội đồng sơ thẩm hiểu một kiểu, cuối cùng phải biểu quyết" 10 . Quả thật đây là một thực trạng đáng báo động . Những sự kiện gần đây càng cho thấy sự bức xúc ấy.
Hơn nữa, có một thực tế mà ai cũng thấy: vi phạm quyền dân chủ là thói quen khó bỏ của người nắm quyền. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước, xét cho kỹ, tự thân nó đã chứa đựng một khả năng lạm quyền, chuyên quyền. Cho nên trong thực tế, bất kỳ một loại quyền lực nào cũng có khuynh hướng tăng cường hơn nữa, tăng cường vô hạn độ quyền lực của mình, cả trên bình diện cá nhân cũng như trên bình diện tổ chức. Đấy là chưa nói đến một thực tế phũ phàng đã từng được đúc kết thành quy luật : "Quyền lực có xu hướng tham nhũng. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối" [Lord Acton]. Thực hiện nguyên lý "pháp quyền ở trên nhà nước" làm điểm tựa cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là tiền đề quyết định để khắc phục dần và đi đến xóa bỏ thực tế phũ phàng đó.
Kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay đúng vào dịp cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII, nhắc lại tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền và nhà nước pháp quyền chính là cách thiết thực học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sống động nhất.

Một số cách "hủy hoại" giáo dục đại học

Để có thể đảm nhiệm 2 sứ mệnh đào tạo và nghiên cứu đem lại lợi ích cho toàn xã hội của mình, hệ thống đại học cần có được sự tụ hợp của nhiều điều kiện thuận lợi trong một quá trình phát triển lâu dài. Tuy nhiên, trong lịch sử, hệ thống ĐH không phải lúc nào cũng có được những điều kiện thuận lợi để phát triển, mà trái lại, luôn có các thế lực hay chính sách vì cố tình hay vô ý đã và đang hủy hoại nó.
Bỏ đói ĐH bằng nhiều cách
Không cần đàn áp các học giả hay phá hủy cơ sở vật chất, mà chỉ cần bỏ đói họ, không cung cấp đủ kinh phí cho các ĐH hoạt động, các ĐH cũng sẽ tự khắc xuống cấp, thoái hóa.
Sự bỏ đói dễ nhận thấy nhất, là khi các giáo sư ĐH được trả lương cực thấp so với các nghề khác, có khi thấp hơn cả nhân viên quèn ở các hãng tư nhân.
Thời Xô Viết, các nhà khoa học tuy không giàu, nhưng đủ sống và được chăm lo bao cấp nhiều khoản, không phải lo về vật chất, có thể yên tâm giảng dạy nghiên cứu khoa học. Bởi vậy đó là thời kỳ hoàng kim của khoa học Nga nói chung. Khi chính quyền Xô Viết sụp đổ, chế độ mới lên thay đã bỏ rơi giáo dục phổ thông và ĐH trong 2 thập kỷ 1990-2010, khiến cho GD và ĐT của Nga xuống cấp trầm trọng về chất lượng, đặc biệt là ĐH.
Trong khi kinh tế tư nhân ở Nga "bùng nổ", giá cả ở Matxcơva trở nên đắt đỏ loại nhất thế giới, và thu nhập trung bình của người dân Matxcơva cũng trở nên thuộc loại khá cao trên thế giới (chủ yếu nhờ vào xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có), thì thu nhập của giảng viên ĐH ở Nga chậm thay đổi, không theo kịp sự trượt giá.
Vào thời điểm 2010, lương giáo sư của MGU (ĐH danh giá nhất nước Nga) chỉ có khoảng 1000 USD một tháng, trong khi một kỹ sư máy tính xoàng cũng có thể được 2-3 nghìn USD/ tháng.
Hệ quả tất yếu của việc cắt giảm kinh phí là sự chảy máu chất xám.
Nếu như trước 1991 số lượng các nhà khoa học Nga "vượt biên" sang phương Tây còn tương đối hiếm (trừ những người gốc Do Thái đi khỏi Nga về Israel), thì trong suốt giai đoạn 1991-2010 có sự ra đi ồ ạt của các nhà khoa học Nga sang phương Tây và sang cả các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Những người còn ở lại Nga thì cũng thỉnh thoảng ra nước ngoài kiếm sống, bỏ rơi sinh viên trong nước, hoặc "chân trong chân ngoài". Hoặc tệ hơn là tham nhũng thoái hóa, bán điểm, làm luận án thuê, v.v. Nhiều GS hay tiến sĩ của Nga sẵn sàng viết thuê luận án, bán danh dự để nuôi thân.
Các nước Đông Âu như Ba Lan và Hungary, sau khi không còn XHCN và sáp nhập vào với Cộng đồng châu Âu, đã có chính sách tốt hơn trong quá trình chuyển đổi, không bỏ đói ĐH một cách tồi tệ như Nga. Nên các nhà khoa học ở các nước đó phần lớn yên tâm làm việc ở nước mình, không phải "chạy loạn" như các nhà khoa học Nga.
Giảng viên đại học và sinh viên biểu tình tại thủ đô London (Anh). Ảnh: Getty Images
Tình hình ở Pháp tất nhiên không đến nỗi tồi như ở Nga, nhưng cán bộ ĐH hay nghiên cứu khoa học của Pháp cũng được trả lương khá thấp so với nhiều nước tiên tiến khác. Một tiến sĩ trẻ được nhận vào làm nghiên cứu viên CNRS ở Paris (là một công việc khá "danh giá") nhưng đi thuê nhà không thuê được, vì với mức lương CNRS như vậy không ai cho thuê cả.
Theo một thống kê, lương khởi điểm của "maitre de conference" ("giảng viên chính") ở Pháp bị giảm liên tục trong hơn 20 năm 1986-2008 sau khi đã trừ đi lạm phát (tức là lương tăng chậm hơn so với lạm phát). Lương năm 2008 chỉ có sức mua bằng khoảng 85% lương năm 1986, trong khi nền khi tế đi lên nhiều trong hơn 20 năm đó.

Chính phủ Pháp vào năm 2010 đang quan tâm hơn đến khoa học với những cải cách này nọ, nhưng về cơ bản thì giảng viên ĐH vẫn bị đối xử tệ. Ngay chính sách tài trợ nghiên cứu của Pháp hiện tại cũng không khuyến khích được mọi người tích cực nghiên cứu hơn. Nói một cách nôm na, đó là chính sách "20% tốt, 80% dốt" (tiếng Pháp: "20% de bons, 80% de cons").
Có nghĩa là người ta đặt ra một qui định khá máy móc tùy tiện: Chỉ có 20% số giảng viên ĐH xin tiền phụ cấp nghiên cứu được xếp hạng "tốt" và được phụ cấp nghiên cứu, thường trong quãng 4 nghìn đến 6 nghìn Euro/năm). Còn lại 80% GS, Phó GS, dù có tích cực nghiên cứu cũng không được phụ cấp, và điều này khiến cho nhiều người chán nản bỏ nghiên cứu.
Khi các ĐH không còn được Chính phủ hay tổ chức từ thiện cung cấp kinh phí, mà chủ yếu dựa vào hợp đồng với các hãng tư nhân vì lợi nhuận cho ngân sách khoa học của mình, thì việc nghiên cứu khoa học bị bóp méo đi, các nghiên cứu có lợi chung cho xã hội bị bỏ rơi, "cha chung không ai khóc", chỉ có những nghiên cứu đem lại lợi tư được phát triển.
Một xu hướng ở nhiều nước hiện nay là, mỗi khi Chính phủ có khó khăn về tài chính (chẳng hạn do phải vung tiền cứu giới tài chính sau khi giới này đầu cơ làm loạn tài chính và kinh tế thế giới), thì hệ thống ĐH là 1 trong những nơi dễ bị cắt giảm ngân sách nhất. Cắt giảm ngân sách cũng là một cách "bỏ đói" ĐH.
Dù rằng ĐH luôn là động lực để phát triển kinh tế về lâu dài, và kinh tế trước nay được hưởng rất nhiều từ ĐH, và hệ thống ĐH không phải là nơi gây ra các khó khăn khủng hoảng về kinh tế, nhưng trước mắt chỗ nào cắt được thì họ cứ cắt. Đối với nhiều nhà chính trị, các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu có ảnh hưởng tốt chung đến xã hội trong những lĩnh vực không đếm ra được ngay thành tiền (như văn hóa, nghệ thuật, tinh thần...) chẳng có ý nghĩa gì mấy, và ngân sách cho những chỗ đó càng dễ bị cắt giảm.
Việc cắt giảm kinh phí ĐH không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở các nước khác như Mỹ, Tây Ban Nha, v.v. với lý do "khó khăn kinh tế". Chẳng hạn ở Tây Ban Nha, các giảng viên ĐH đều bị giảm lương khoảng 6%. Một điều hơi khó hiểu là, Chính phủ Mỹ một mặt in tiền và tung các gói "kích cầu" khổng lồ nhằm vực kinh tế khỏi suy thoái. Nhưng một mặt lại cắt giảm kinh phí cho ĐH, mà ĐH chính là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Nếu như trong những thập kỷ trước, nước Mỹ thu hút được nhiều nhân tài từ các nước khác trên thế giới do đổ nhiều tiền vào ĐH, cho nhiều học bổng cho học sinh nước ngoài, v.v. thì ngày nay thế mạnh đó của Mỹ đang giảm đi (trong khi thế mạnh của Trung Quốc tăng lên).
thương mại hóa bằng nhiều cách
Hầu hết các ĐH lớn quan trọng nhất trên thế giới, dù là ĐH công như Cambridge hay ĐH tư như Princeton, đều là các ĐH phi lợi nhuận. Còn các ĐH vì lợi nhuận chỉ tạo thành một phần nhỏ của hệ thống ĐH. Lý do là, các ĐH là các tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội làm lợi chung cho toàn xã hội. Chính vì toàn bộ xã hội được ảnh hưởng rất lớn từ hệ thống ĐH, nên có thể coi ĐH là của cải chung của xã hội, và xã hội có trách nhiệm "nuôi" nó.
Các ĐH tư phi lợi nhuận do các doanh nhân giàu có bỏ tiền tài trợ, cũng là một hình thức đóng góp và gây ảnh hưởng đến xã hội của họ. Các ĐH vì lợi nhuận có vai trò nhất định trong xã hội, nhưng không đem lại được lợi công cho xã hội như là ĐH phi lợi nhuận, mà mục đích chính của chúng là đem lại lợi ích cho chủ sở hữu.
Các ĐH vì lợi nhuận sẽ chỉ chú trọng đầu tư vào những gì sinh lời nhanh chóng, mà không đầu tư vào những hướng nghiên cứu hay đào tạo có ảnh hưởng tốt lâu dài đến toàn xã hội. Bởi vậy, xã hội muốn được hưởng nhiều thành quả từ hệ thống ĐH, không thể dựa vào ĐH vì lợi nhuận, mà cần dựa vào ĐH phi lợi nhuận.
Cũng vì vậy, ở Việt Nam, khi một số chuyên gia kinh tế "xui" Chính phủ nên cổ phần hóa các ĐH công có quy mô lớn, là một ý tưởng sai lầm. Vì nó sẽ chỉ làm lợi cho một số tư nhân mà làm hại chung cho toàn đất nước.
Tuy nhiên, ở một số nước tư bản hiện nay, song song với xu hướng cắt giảm ngân sách nhà nước cho ĐH, đang có một xu hướng khá nguy hiểm là thương mại hóa ĐH, dần dần biến chúng thành các "công ty thương mại". Khi các ĐH không còn được Chính phủ hay tổ chức từ thiện cung cấp kinh phí, mà chủ yếu dựa vào hợp đồng với các hãng tư nhân vì lợi nhuận cho ngân sách khoa học của mình, thì việc nghiên cứu khoa học bị bóp méo đi. Các nghiên cứu có lợi chung cho xã hội bị bỏ rơi, "cha chung không ai khóc", chỉ có những nghiên cứu đem lại lợi tư được phát triển.
Đại học là một ví dụ về việc quản lý ĐH như một công ty thương mại
Sự tự do tư tưởng trong nghiên cứu cũng sẽ mất dần đi. Khái niệm "giáo sư" sẽ mất dần đi ý nghĩa "người thầy" cao quí của nó, mà dần dần biến thành nghĩa "người làm công ăn thuê cho các ông bà chủ nắm quyền ở ĐH".
Việc ĐH hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, để điều chỉnh công việc đào tạo và nghiên cứu cho thích hợp với nhu cầu xã hội, là việc tốt và cần thiết. Việc doanh nghiệp tài trợ cho ĐH, đổi lấy sự đảm bảo nguồn nhân lực trí thức và sự hỗ trợ về khoa học công nghệ, là việc tốt. Nhưng nếu ĐH trở nên quá phụ thuộc về kinh tế vào các doanh nghiệp tư, thì lại thành xu hướng nguy hiểm: Đó là xu hướng nô lệ về kinh tế, trở thành tay sai cho các quyền lợi tư, mất đi ảnh hưởng đến chung đến toàn xã hội.
Đại học Luxembourg (mới thành lập từ năm 2003 ở Luxembourg) là ĐH công, nhưng là một ví dụ về việc quản lý ĐH như một công ty thương mại. Trong cái "công ty thương mại" đó, GS chỉ là một nhân viên dưới quyền quản lý của cấp trên trực tiếp, và ngược lại là sếp của mấy cấp dưới trực tiếp (phụ giảng, postdoc), chứ không có được sự tôn trọng như là người thầy và sự tự do nghiên cứu như ở những nơi khác.
Một biểu hiện của xu hướng thương mại hóa nữa, là khi sinh viên được coi thành "khách hàng", quan hệ giữa trường ĐH và sinh viên không còn là một quan hệ có trách nhiệm xã hội trong đó, mà xuống cấp thành quan hệ thương mại "kẻ mua - người bán". Khách hàng là "thượng đế", nên ĐH sẽ ra sức "chiều" sinh viên, đổi "điểm tốt" lấy tiền. Giảng viên không dám kỷ luật sinh viên không nghiêm túc hay cho điểm xấu những sinh viên học kém, vì sợ làm "mếch lòng thượng đế".
Hậu quả là lạm phát văn bằng, chất lượng đào tạo không đảm bảo, Học ấm ớ vẫn có đủ các thứ bằng cấp miễn là nộp đủ tiền. Xu hướng thương mại hóa cũng góp phần tạo rào cản cho những sinh viên học giỏi nhưng ít tiền không vào được ĐH (kể cả ĐH công), trong khi con nhà giàu học dốt thì được nhận học. Hệ quả là vừa lãng phí đầu tư công và lãng phí tiềm năng xã hội, vừa làm tăng khoảng cách phân biệt giàu nghèo.

Khi xã hội và các nhà hảo tâm nhớ đến các ĐH vì thành tích "tiêu khiển tốt", thay vì các đóng góp về đào tạo và nghiên cứu, thì giá trị đích thực của ĐH đã bị giảm đi.
  • Theo Tia Sáng
* Tuần Việt Nam biên tập lại

Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền

Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.
  • LTS: Sáu lăm năm trước, lúc vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở vào một tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Vận mệnh của Tổ quốc, nền độc lập của dân tộc vừa mới giành được đang đứng trước nguy cơ mất còn. Vì vậy, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã xác định, một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là phải xây dựng cho được một bản Hiến pháp. Người chỉ rõ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ".
  • Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam đăng lại bài viết của TS Nguyễn Sĩ Dũng trên tờ PLTPHCM hồi năm 2005 về tư tưởng pháp quyền trong Hiến pháp 1946- ra đời cách đây trên nửa thế kỷ để mọi người cùng suy ngẫm.
>> Toàn văn Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Hiến pháp 1946)>> Đọc và nghe Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
60 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm ấy. Sống mãi với thời gian là các giá trị của Cách mạng tháng Tám: độc lập, tự do, dân chủ. Sống mãi với thời gian là tư tưởng pháp quyền kết tinh trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản hiến pháp đó còn được gọi là Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm"). Một trong những lý do giải thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền.
Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Về mặt lý luận, điều này có thể đạt được bằng hai cách: 1- Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua; 2- Hoặc hiến pháp phải do toàn dân thông qua. Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ ba năm. Như vậy, nếu không có chiến tranh, sau khi thông qua hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
Hai là các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao hơn là nhà nước ghi nhận và bảo đảm. Vì rằng nếu nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền chủ động là thuộc nhà nước, nhưng nếu hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì nhà nước không có quyền chủ động ở đây.
Ba là quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế. Ví dụ "quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ" của Ban thường vụ Nghị viện (Điều 36 Hiến pháp1946); quyền của "nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghị viện" (Điều 40 Hiến pháp1946); Thủ tướng có quyền nêu vấn đề tín nhiệm để Nghị viện biểu quyết (Điều 54 Hiến pháp 1946)...
Bốn là quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ. Nghị viện nhân dân chỉ quyết định những vấn đề "chung cho toàn quốc" (Điều 23 Hiến pháp 1946). Hội đồng nhân dân được quyền quyết định "những vấn đề thuộc địa phương mình" (Điều 59 Hiến pháp 1946).
Cuối cùng, vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Điều này đạt được nhờ hai cách: một là các toà được thiết kế không theo cấp hành chính (Điều 63 Hiến pháp 1946); hai là khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp" (Điều 69 Hiến pháp 1946).

Việt Nam chuẩn bị sửa đổi hiến pháp

Tại phiên họp thứ chín là kỳ họp cuối của quốc hội Việt Nam khóa 12, trong báo cáo của chánh phủ trình bày trước diễn đàn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đặt vấn đề sớm nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hiến pháp, hầu bảo đảm quyền dân chủ của người dân, tăng cường pháp chế, kỷ luật.
AFP photo
Ông Nguyễn Phú Trọng (T) và ông Nguyễn Tấn Dũng tại phiên khai mạc Đại hội 11 ở Hà Nội hôm 11-1-2011.


Đỗ Hiếu ghi nhận ý kiến từ nhiều công dân Việt Nam thuộc các khuynh hướng chính trị, vị trí xã hội, vùng đất sống khác nhau, cùng trình bày quan điểm về việc “sửa đổi hiến pháp”.

Không đơn giản


duongtrungquoc-rfa-200.jpg
Ông Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. RFA file
Từ Hà Nội, ông Dương Trung Quốc, thành viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đại biểu đơn vị Đồng Nai lên tiếng ủng hộ kiến nghị của chánh phủ, muốn sửa đổi hiến pháp để thích ứng với sự tiến triễn của đất nước theo xu hướng chung của thế giới, tuy nhiên theo ông, thực tế sẽ không đơn giản:

“Câu nói của Thủ tướng chính phủ, tôi nghĩ là ông nói ra một nguyên lý rất cơ bản, chắc là sẽ tìm được sự đồng thuận của tất cả mọi người, kể cả tôi, nhưng cái khó nhất là ở Việt Nam, chúng ta phải tìm mô hình hơi đặc thù; nếu như chúng ta biết đến lịch sử nhân loại phát triển thì chúng ta thấy nó có những bước đi, có những yếu tố riêng của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, nhưng nó cũng có những nét chung.
Thí dụ như vấn đề Tam Quyền Phân Lập là gần như trở thành một vấn đề chung của nhân loại rồi, nhưng ở Việt Nam hiện ngay vẫn cố gắng tìm cái mô hình, không hoàn toàn như vậy, cho nên nguyên lý mà ông Thủ tướng đưa ra hoàn toàn đúng, nhưng đạt được cái nguyên lý ấy, là một bài toán hết sức khó, khó là vì làm sao Việt Nam trong quá trình hội nhập tiếp cận được với tất cả giá trị phổ quát của nhân loại, nhưng vẫn giữ được cái đặc thù của Việt Nam.
Tôi hoan nghênh nguyên lý ấy; thế còn cái việc mà cụ thể hóa như thế nào trong bản hiến pháp được sửa đổi, chắc sẽ là một cuộc trao đổi lâu dài, tôi không dám lạm bàn ngay vào thời điểm này.
Ông Dương Trung Quốc
Việc mỗi quốc gia tìm cái đặc thù riêng của mình về mặt lịch sử, tôn giáo, văn hóa là điều hết sức xác đáng nhưng với Việt Nam đó là bài toán chưa được giải mã hết. Tôi hoan nghênh nguyên lý ấy; thế còn cái việc mà cụ thể hóa như thế nào trong bản hiến pháp được sửa đổi, chắc sẽ là một cuộc trao đổi lâu dài, tôi không dám lạm bàn ngay vào thời điểm này.”
Với tư cách là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, ông Dương Trung Quốc bày tỏ niềm hy vọng là:
“Chắc chắn đứng về lâu dài, một ngày nào đó, tôi nghĩ rằng Việt Nam cũng phải hội nhập với thế giới, về các giá trị phổ quát, vì đây là bước tiến của nhân loại.”

Nói chứ không làm


000_Hkg3844410-250.jpg
Trụ sở Tập đoàn Vinashin tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Vừa rồi là ý kiến của một đại biểu quốc hội, từng phục vụ hai nhiệm kỳ và sẽ ứng cử vào cơ quan lập pháp thêm một nhiệm kỳ nữa tại đơn vị Đồng Nai. Một người dân từng làm việc cho nhiều chế độ cầm quyền, trước khi đất nước chia đôi, sau hiệp định Geneve 1954, nay đã về hưu, ông Hợp nói lên cảm nghĩ của mình khi đón nhận thông tin qua báo đài, về việc sửa đổi và bổ sung hiến pháp:

“Đừng nghe người ta nói hãy xem người ta làm; nói thì nghe hay lắm nhưng có làm thế đâu, chả có nhà nước pháp quyền nào mà lại là pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đấy là một cách nói thôi; thế còn sửa gì, mà có sửa người ta cũng không theo cái người ta nói đâu.
Đừng nghe người ta nói hãy xem người ta làm; nói thì nghe hay lắm nhưng có làm thế đâu.
Ông Hợp
Đấy là kinh nghiệm của những người ở Việt Nam thì thấy rất rõ, chẳng hạn như vừa rồi cái vụ Vinashin mà bảo không ai mắc khuyết điểm, không kỷ luật ai cả. Quốc hội có những người nói rằng, ăn trộm một con vịt thôi mà còn bị kỷ luật, bị tù huống hồ là bao nhiêu nghìn tỷ như thế mà không ai mắc khuyết điểm thì thật là người dân không chịu, người ta không nghe được.
Cũng có những đại biểu phát biểu như thế đấy, nhưng mà thôi, người ta làm thì cứ làm, bởi vì chế độ này là toàn trị, người dân Việt Nam chán rồi, chả muốn nói gì cả. Bây giờ có cái tâm lý là mọi người lao đi mà kiếm sống, họ không để ý đến chuyện gì cả, đấy là cái nguy hiểm nhất đối với một dân tộc.”

Đĩa hát cũ


vu-thu-hien-200.jpg
Nhà văn Vũ Thư Hiên. Photo courtesy of www.ledinh.ca.
Một công dân Việt Nam sinh trưởng tại Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, nay định cư ở Pháp, nhà văn Vũ Thư Hiên cho rằng đề nghị sửa đổi hiến pháp là một câu chuyện từng được lập đi lập lại bao nhiêu lần rồi:

“Bình thường tôi ít để ý tới những tuyên bố vì giống như đĩa hát cũ, dùng nhiều quá thì nó rè, không nghe ra gì cả, thành ra là, theo tôi tốt nhất thì người ta hãy làm cái động tác rất bình thường, thí dụ như trưng cầu dân ý, xem rằng có nên có một nước mà chỉ có một đảng cai trị không, hoặc là tất cả các đại biểu nhân dân được bầu bán tử tế, đàng hoàng, cùng bàn bạc trong một quốc hội có đầy đủ các thành phần để bàn việc nước.
Tôi nghĩ rằng câu đó (sửa đổi hiến pháp) không những tôi mà bất cứ ai ở Việt Nam cũng trả lời giống tôi, cái đĩa hát ấy cũ quá rồi.”
Ông cũng trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề “độc đảng hay đa đảng”:
“Cái xu thế của thời đại ngày nay không có gì cưỡng nổi, tất cả các nước đều phải theo chế độ dân chủ, mà dân chủ là phải có đủ mọi thành phần, chứ tôi không muốn dùng chữ đa đảng vì thật sự ra, các đảng họ có mặt hay không có mặt, ra đời, vào lúc nào, có uy tín trong dân thế nào, để ở trong quốc hội bàn bạc việc nước, là chuyện khác với có nhiều đảng hay không.
Tất cả các đảng họ sẽ xuất hiện trên xu hướng, phương pháp, mục tiêu đấu tranh thế nào, đoàn kết lại một số người, thì phải là những đảng đàng hoàng, đứng đắn, chứ còn nếu đa đảng để chỉ gọi là đa đảng thôi, điều đó không có nghĩa là sẽ có nền dân chủ.”
Tôi nghĩ rằng câu đó (sửa đổi hiến pháp) không những tôi mà bất cứ ai ở Việt Nam cũng trả lời giống tôi, cái đĩa hát ấy cũ quá rồi.
Nhà văn Vũ Thư Hiên
Có nhiều ý kiến đăng tải trên báo chí nhận định rằng, quốc hội Việt Nam từ khi đảng cộng sản lên cầm quyền năm 1945 tới giờ chưa thật sự là quốc hội của nhân dân mà chỉ là quốc hội của đảng, tức là các đại biểu do đảng cử, dân bầu.
Theo báo chí thì sửa đổi hiến pháp là một cơ hội tốt để nâng cao dân trí, thúc đẩy dân chủ hóa công việc quản lý đất nước, vì thế giới trí thức, chuyên gia cần tích cực tham gia nghiên cứu, thảo luận, hầu hoàn chỉnh hiến pháp.
Tuy nhiên, bao lâu mà các quyền tự do căn bản của người dân chưa được thực thi trọn vẹn như quyền tự do ứng cử, bầu cử mà còn bị lắm hạn chế thì nhân dân Việt Nam sẽ không thể có một quốc hội đại diện cho mình và vì thế người ta chưa hy vọng sẽ có một hiến pháp dân chủ mà người dân hằng trông đợi.
Được biết, Viện Nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy Ban Thường Vụ quốc hội, có nhiệm vụ nghiên cứu những đổi mới về thảo luận, sửa đổi, bổ sung hiến pháp Việt Nam được tài trợ ngân khoảng 700 ngàn đô la, trong năm nay, phần lớn do viện trợ của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc.
Dự án này kéo dài 18 tháng với mục tiêu tạo sự đổi mới của quốc hội trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay mà hoạt động đáng chú ý nhất là tìm hiểu, khảo sát, tổ chức, thu thập ý kiến để sửa đổi hiến pháp.

Đã đến lúc cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam?

Trước các kỳ ĐH đảng, BCH Trung ương Đảng thường đưa ra các dự thảo văn kiện như báo cáo chính trị, cương lĩnh xây dựng đất nước…để lấy ý kiến của các tổ chức, cán bộ, đảng viên và dân chúng.
AFP photo
Ban lãnh đạo ĐCS VN hiện nay từ trái qua: Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Người ta cho rằng, các ý kiến đóng ý đó sẽ được tổng hợp lại và trình lên Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, và đảng dựa vào các ý kiến đóng góp này để chỉnh sửa các văn kiện, sau đó sẽ ra nghị quyết, thực hiện các chủ trương của đảng đề ra.
Đó là về mặt lý thuyết, thế nhưng trên thực tế, các ý kiến đóng góp này rất khó có thể thay đổi các dự thảo văn kiện của BCH Trung ương Đảng, hoặc ngay cả có thay đổi, được đưa vào nghị quyết, không có gì bảo đảm rằng đảng sẽ thực hiện. Nhiều ý kiến cho rằng cần phải “luật hóa” sự lãnh đạo của đảng, và đảng cũng như bất kỳ tổ chức nào khác, đều phải chịu sự chế tài của luật pháp; đảng không thể đứng trên pháp luật. Ngọc Trân trình bày tiếp.

Đảng chỉ “nói mà không làm”!

Tại hội thảo góp ý cho dự thảo văn kiện Đại hội XI hôm 7 tháng 10, TS Lê Đăng Doanh nói rằng, nhiều nội dung đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng ở các khóa trước, đảng đã không thực hiện. Ông Doanh phát biểu: “Cần phải có sự kiểm điểm nghiêm túc việc thực hiện các nội dung đã ghi trong nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X. Bây giờ kiểm điểm lại thì thấy tất cả các nội dung liên quan đến việc phát huy quyền dân chủ của người dân, đều đã không thực hiện. Và điều này chắc chắn không phải là một sự tình cờ.
Bây giờ kiểm điểm lại thì thấy tất cả các nội dung liên quan đến việc phát huy quyền dân chủ của người dân, đều đã không thực hiện.
TS Lê Đăng Doanh
Một là luật về hội, hai là luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân, đã có ghi nhưng không thực hiện. Thứ ba, luật về toà án, hiến pháp, không làm. Thứ tư, luật về trưng cầu dân ý, không làm. Và có quy định là phải phát huy sự giám sát của dân đối với đảng, chả thấy phát huy gì cả. Và nhất là tất cả các chuyện kia, ai mà có ý kiến thì lập tức bị săm soi, dùng các công cụ này khác hạn chế v.v…”

000_Hkg3949349-250.jpg
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (phải) bắt tay với các quan chức chính phủ Campuchia tại sân bay quốc tế Phnom Penh ngày 26/8/2010. AFP photo
Tổng Bí thư Đảng CSVN tuyên bố rằng, đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của đảng. Ông Nông Đức Mạnh đã nói: “Là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trở thành Đảng cầm quyền hơn 60 năm qua. Đảng ta phải làm tròn sứ mệnh lãnh đạo do nhân dân giao phó và chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình trong việc thực hiện sứ mệnh đó”.

Mặc dù chính Đảng CSVN đã đề ra các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết…mà không thực hiện, thế nhưng đảng chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân bằng những lời nói suông. TS Lê Đăng Doanh nói tiếp: “Bây giờ, một cái đảng mà đến nghị quyết đại hội cũng không thực hiện. Thế thì bây giờ sẽ đi đến đâu? Sắp tới đây sẽ như thế nào? Và đấy là cái điều, theo tôi là phải có sự kiểm điểm hết sức là nghiêm túc, bởi vì rằng là đã đang Đại hội là cao nhất rồi, mà sau đó rất là lặng lẽ, thản nhiên, coi như cái điều này là không  phù hợp.
Thí dụ như, Viện KHXH đã nhiều lần trình ra bản về ‘quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học’, thì có một câu xanh rờn, làm gì có cái chuyện này? Dẹp! Thế thì thôi, chả ai có ý kiến gì cả.  Ở đây có mấy anh em cũng đã tham gia vào tiết mục ấy, lặng lẽ rút về cả, chẳng có ý kiến gì cả. Thế thì, tương lai trong đợt sắp tới này, có quy chế gì không? Tức là đảng cũng phải có quy chế về việc BCH Trung ương có thực hiện một cách nghiêm túc hay không chứ”?

“Phải cải cách thể chế chính trị”!

Cũng tại hội thảo góp ý cho văn kiện Đại hội XI, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, cùng các vị nguyên là lãnh đạo cao cấp của Đảng và  Nhà nước, cho rằng, nên cải cách thể chế chính trị song song với đổi mới kinh tế.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng ĐH kinh tế, góp ý kiến: “Thể chế không dừng lại là chỉ thể chế kinh tế thị trường, cái điều đó đúng nhưng không phải chỉ có nó mà còn thể chế dân chủ và pháp quyền nữa chứ và nói chung lại là thể chế là sự cải cách chính trị. Chúng ta đổi mới tiếp tục, cái chiến lược này phải thể hiện tinh thần đổi mới tiếp tục, không phải chỉ đổi mới kinh tế mà đổi mới chính trị. Và thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã nói điều này. Fidel Castro ở Cuba gần đây đã nói cái điều mà chúng tôi mong muốn hết sức mà Việt Nam chưa có những tiếng nói đó”.
Tiếp theo ý kiến của ông Đào Công Tiến, ông Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ VN tại Thái Lan đề nghị, đảng nên đưa ra nghị quyết sửa đổi hiến pháp:

000_Hkg3595030-200.jpg
Ông Trương Tấn Sang tại kỳ họp Quốc Hội ở Hà Nội hôm 20/5/2010. AFP photo
“Tôi xin đề nghị ghi vào nghị quyết: cải cách thể chế chính trị trở thành một đòi hỏi bức xúc. Hiện nay thể chế chính trị của chúng ta lạc hậu và đã trở thành cản trở sự phát triển của đất nước. Tôi xin nói rõ thêm, cải cách thể chế chính trị ở đây đừng có hiểu nhầm là đa nguyên đa đảng các thứ mất thì giờ. Không phải. Cải cách chính trị ở đây là gì, là nói rõ ra Đảng làm gì? Nhà nước làm gì? quyền của dân như thế nào như anh Tiến nói. Và trên tinh thần đó tôi đề nghị ghi rõ hẳn vào nghị quyết phải xây dựng lại hiến pháp mới”.

Liên quan đến vấn đề thể chế, GS Trần Phương nhận định: “Cuối cùng là Đảng làm hết, mà Đảng không chịu trách nhiệm. Ông quyết đủ mọi thứ nhưng ông có chịu trách nhiệm trước dân đâu, mà dân có bầu ông ra đâu nhỉ? Cho nên Đảng làm gì, đó là một đại vấn đề. Nhà nước làm gì, cũng là một đại vấn đề đấy”.
TS Lê Đăng Doanh cho rằng, cần phải có sự giám sát bên trong lãnh đạo đảng: “Cần phải có cái sự giám sát từ trong Đảng. Quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, đối với nhà nước phải làm rõ ràng, nếu không không có được cái sự tiến bộ này thì thực chất chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu cả”.

Cùng ý kiến với TS Lê Đăng Doanh, TS Lưu Bích Hồ cho rằng, đảng không thể đứng trên pháp luật: “Có đồng chí đề nghị, có luật về đảng, sự lãnh đạo của đảng. Đảng và nhà nước ta là pháp quyền, đảng không thể đứng trên pháp luật được. Đảng phải đứng trong pháp luật. Đảng lãnh đạo, nhưng đảng phải đứng trong, chứ không đứng trên pháp luật”.
GS Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư, cho rằng, cần phải thay đổi thể chế chính trị. Ông Nguyễn Mại phát biểu: “Đã đến lúc chúng ta không thể không đương đầu với đổi mới về chính trị. Tôi đồng ý với anh Trung, không phải đa nguyên đa đảng, nhưng rõ ràng là toàn bộ cái thể chế chính trị hiện nay là không đảm bảo cho phát triển kinh tế trong tương lai. Vì vậy phải đổi mới một cách cơ bản từ việc vào đảng, từ việc quản lý của nhà nước”.
...rõ ràng là toàn bộ cái thể chế chính trị hiện nay là không đảm bảo cho phát triển kinh tế trong tương lai.
GS Nguyễn Mại
“Không thể không có đổi mới chính trị. Rõ ràng là vai trò quản lý của nhà nước, vai trò Quốc hội, thì rõ ràng là các đồng chí đã nói Quốc hội hiện nay chưa phải là cơ quan lập pháp đúng nghĩa của nó, bởi vì toàn bộ luật Quốc hội chỉ rất chung chung. Cơ quan lập pháp chính là chính phủ, chính là Thông tư các bộ. Cho nên phải đổi mới, biến Quốc hội ít nhất thành một cơ quan chủ yếu là lập pháp, và cái chức năng này phải được thay đổi”.
Phải chăng đã đến lúc Đảng CSVN nên “lãnh đạo” bằng hiến pháp và pháp luật thay vì “đảng luật”?

‘Người đàn bà viết văn ở Đèo Ngang’ đòi kiện VTV tới cùng

Đói, rét, nghèo, cô độc, con nhỏ… Ngay cả một người bạn để tâm sự sẻ chia cũng không có. Người góa phụ sống bằng nghề bán cá ở chân Đèo Ngang trút cả vào trang viết. “Nếu không đầu óc tôi sẽ nổ tung”.
Khách lạ ở VietNamNet
Đầu giờ sáng, một giọng nói oang oang phía ngoài cửa tòa soạn khiến toàn thể biên tập viên, phóng viên của báo phải ngửng lên nhìn. Người đàn bà trông dáng vẻ lam lũ quê  mùa, hai bên vai khệ nệ mang vác hai bao tải, tóc bết mồ hôi xuống khuôn mặt xạm đen đứng giữa cửa. Không giảm âm lượng khi bước vào phòng, chị nói: tôi muốn tìm phóng viên.
"Báo cáo các anh chị, tôi là người đàn bà nghèo viết văn ở chân Đèo Ngang. Tôi lặn lội từ Quảng Bình ra đây mong muốn được gặp các anh chị"  "Ồ... người đàn bà bán cá, bắt ốc và viết văn dưới chân Đèo Ngang, tôi đã nghe nhiều và cũng đã đọc vài tác phẩm của chị". Một biên tập viên hồ hởi.
Vẫn tiếp tục làm điếc tai cả phòng, người phụ nữ hạ hai chiếc bao tải xuống, hào hứng lôi ra những tập sách, truyện ngắn và và mời gọi mọi người đến để chị tặng sách; vừa oang oang giới thiệu: "Cuộc đời tôi viết đến bao cuốn sách cũng chẳng hết, chuyện này tôi viết trong cuốn này, vụ này tôi đúc kết lại trong chuyện kia..."
Bao tải còn lại có những túi lạc củ mà chị nói 'quà quê từ Quảng Bình' mang ra cho. Sách kèm lạc.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về chị, nhà văn chân đất Đậu Nữ Vệ như thế. Chị tìm đến với chúng tôi về vụ kiện tụng xung quanh quyền tác giả của chị về một kịch bản phim truyền hình. Thực ra vụ việc không mới, kéo dài đã 5 -6 năm. Bản thân chị và đối tượng kiện tụng: Trung tâm sản xuất phim truyền hình Việt Nam (VFC) đã từng ngồi làm việc ở những cơ quan chức năng, chị đã đưa đơn kiện ra tòa án với '29 lần ra Hà Nội, ăn chực nằm chờ ở các vườn hoa công viên để chờ gặp thẩm phán' như chị nói, nhưng xem ra vụ việc lùng nhùng chẳng ai biết đến hồi nào kết thúc. Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay một thời gian đã ồn ào trên báo chí.
Xen giữa những trình bày gấp gáp, lủng củng của người phụ nữ, điều làm cho tôi tò mò hơn cả là cuộc đời người đàn bà bán cá viết văn đã từng làm bao người cầm bút xúc động này.
Nhà văn Đậu Nữ Vệ. Ảnh: Đan Hoàng
"Nếu không viết được ra, chắc tôi phát điên"
Người đàn bà này có thể coi là điển hình của những thân phận phụ nữ bất hạnh, đâu đó vẫn gặp ở những vùng quê nghèo với một motip khá phổ biến: Năm 1965, Mỹ bắn phá dữ dội vào Lạch Roòn, Đậu Nữ Vệ 10 tuổi bỏ học theo cha làm giao liên chuyên chở bộ đội và vũ khí qua cửa sông Loan. 7 năm làm giao liên, hai lần hai cha con được làm lễ truy điệu sống.
Mối tình đầu không đến được tới đích, một cuộc hôn nhân không hạnh phúc cùng người chồng ốm yếu vì ảnh hưởng chất độc màu da cam, và những đứa con thừa hưởng chất độc ấy. Những thước phim cuộc đời vừa bi tráng, vừa đau khổ nhưng không kém lãng mạn ấy sau này lại chính là chất liệu để người đàn bà ấy - khi bị dồn vào những giây phút bĩ cực nhất cuộc đời - hồi tưởng lại để vừa xót xa, vừa an ủi viết.
Sống với nhau được 9 năm, người chồng mất. Đậu Nữ Vệ khi ấy là y tá trình độ sơ cấp của Bệnh viện Hà Lan (Quảng Trị) buộc phải về hưu non, ôm hai con thơ ra chân Đèo Ngang dựng lều ở, mẹ con bán cá, bắt ốc đắp đổi qua ngày.
"Lúc đó là năm 1993, Đèo Ngang còn hoang vu lắm, cả đoạn đường dài chỉ có mỗi ba mẹ con tôi, vắng vẻ hiu hắt, buồn rợn người", bà Vệ nhớ lại, vẫn giọng nói oang oang ngay cả khi kể về những ngày tháng cùng cực.
Đói, rét, nghèo, cô độc, con nhỏ... Ngay cả một người bạn để tâm sự sẻ chia cũng không có, và bà viết. "Nếu không đầu óc tôi sẽ nổ tung". Bà viết ra bất cứ điều gì có trong đầu, những buồn vui ngày thường, những câu chuyện bà lượm lặt ... hay những thống khổ không thể chia sẻ với ai.
Những tác phẩm cạa nhà văn Đậu Nữ Vệ. Ảnh: Đan Hoàng
Ngay bên hai thúng cá tanh nồng đầy ruồi nhặng, hay đang xắn quần bắt ốc, nấu cơm.., lúc nào bà cũng có bút trong người. Khi một dòng văn thoáng chạy qua đầu, bà viết ra ngay vào bất kỳ đâu: bờ tường, sườn thúng,  lòng bàn tay, thậm chí kéo quần lên viết vào đùi hay bắp chân; để rồi đêm về lại cặm cụi chắp vá xâu chuỗi những câu chữ vụn vặt thành tác phẩm.
Thuyền tình ngược bến - tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Đậu Nữ Vệ về một cô gái có mối tình đẹp nhưng rồi dang dở, sau đó bị làm nhục và phải kết hôn với người mình không yêu... Câu chuyện thấm nước mắt tác giả qua những câu chữ khiến bao độc giả xúc động. Những lá thư động viên chia sẻ gửi về túp lều xác xơ bốn bề lộng gió ở chân Đèo Ngang đã tiếp thêm nghị lực sống cho người đàn bà cô độc nghèo khổ.
Bà Vệ kể, qua bao đêm ngày cặm cụi, tác phẩm đầu tay cũng dần hình thành, chắp ghép từ các mảnh giấy học trò. Bà Vệ ôm tập bản thảo đến Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Trị. Dựng chiếc xe đạp ruồi bâu và đôi sọt vẫn tanh mùi cá vào một góc sân, bà túm lấy một người đàn ông (sau này mới biết là ông Nguyễn Hữu Cử ở Tạo chí Cửa Việt) tha thiết: "Anh ơi cho em hỏi, em có một tiểu thuyết, muốn gởi thì gởi cho ai?" "Tiểu thuyết gì? Cô ở đâu, làm gì mà viết tiểu thuyết?" "Em làm y tá ở Bệnh viện Hà Lan".
Người đàn ông hết nhìn thúng cá và chiếc xe đạp, lại nhìn người đàn bà quần ống thấp ông cao, tất tưởi trước mặt ông hỏi lại: "Tiểu thuyết hay tiểu phẩm?" "Dạ, tiểu thuyết". "Cô học trường viết văn nào?" "Em học... chỉ nửa lớp 4".
Trước sự tha thiết của người đàn bà, thêm những người tò mò xúm lại nhìn ngó, ông Cử miễn cưỡng nhận lời đọc tập bản thảo. Đúng hẹn, 10 ngày sau ông Cử hồ hởi thông báo bản thảo của bà có thể in được, nhưng tác giả phải trả 400 nghìn công biên tập. Số tiền quá lớn vào thời điểm đó (1992), đặc biệt với góa phụ đơn độc.
Vét hết vốn liếng được 200 nghìn đồng đem nộp trước. Chị vào bệnh viện gánh nước thuê, chạy vạy thêm được 200 ngàn nữa trả cho người biên tập. Biên tập xong đến đánh máy, xin giấy phép thêm 340 nghìn nữa, người đàn bà gồng mình lên chạy vạy xuôi ngược với niềm hy vọng tràn trề. Nhưng... "cần 6 triệu đồng in ấn". Nhà văn bán cá bật khóc.
Ghét nhất bọn "xin lửa"
Trở lại quãng đời người đàn bà góa dắt con nhỏ ra Đèo Ngang dựng lều. Đói, rét, cô độc vẫn chưa phải là nỗi niềm lớn nhất mà "sợ và ghét nhất là bọn xin lửa". Hiểu sự ngơ ngác của người nghe, chị vội giải thích: thì một thân đàn bà sống giữa nơi hoang vắng, nhà thủng tứ bề, lại bên cạnh đường, sao tránh được những con mắt dòm ngó.
Ảnh: Đan Hoàng
Từ sáng trưa hay nửa đêm, căn lều lúc nào cũng có người tìm đến "xin lửa". Từ gã tài xế đường dài đỗ xe lại, ông buôn gà chở hàng đi qua, đến những người có gia đình vợ con gần đó cũng qua lại ỡm ờ. "Có lúc tức quá, mình để cả bao diêm sẵn đó, ai thích hút thuốc lấy lửa cứ tự lấy. Nhưng họ lại đút túi luôn cả diêm, rồi lại quay lại "xin lửa". Một ngày lên xuống châm lửa cả chục lần".
Ỡm ờ không được, ngọt nhạt không xong, cợt nhả thô lỗ không đạt được mục đích, những gã đàn ông hiện nguyên hình là các con thú đực bỉ ổi. Chúng giật tung vách liếp, ném gạch đá vào căn lều vốn đã xác xơ; thậm chí đổ phân và rác rưởi xuống giếng nước của người phụ nữ và hai đứa trẻ. Dù đã đi qua chiến tranh và mọi giông gió cuộc đời, nhưng người đàn bà ấy vẫn không thể cầm được những giọt nước mắt đau hận.
Và viết...
Giữa những ong ve bướm lượn, một người đàn ông phần nào hiểu được gia cảnh và nỗi khổ của người góa phụ, trân trọng những trang giấy của chị. Ông đồng ý cho chị vay 5 triệu đồng để in ấn, với điều kiện: vợ ông đang ốm sắp mất, sau khi vợ qua đời, người đàn bà góa sẽ là vợ ông.
Chết đuối vớ được cọc, góa phụ nhận lời. Tiểu thuyết đầu tay cuối cùng cũng được ra đời, người đàn bà bán cá khóc như mưa. Thuyền tình ngược bến của chị xuôi đến độc giả, mang đến bao sự động viên cho chị, cùng một số tiền kha khá để chị trang trải. Nhưng hợp đồng tình yêu của chị lại rẽ sang hướng khác, người vợ khỏe mạnh lại, chị trả lại 5 triệu đồng, rẽ cuộc đời sang trang khác.
Nhà biên kịch nhảy dù và 'ân oán' nghệ thuật
Có được sự mở đầu suôn sẻ, người đàn bà bán cá tiếp tục viết. Chị viết khỏe, liên tục, đầy tự tin xông vào đủ thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, truyện cười, thơ... Tính đến nay nhà văn đặc biệt này đã cho ra đời 8 cuốn sách. Những câu chữ vẫn phảng phất mùi tanh của cá, mùi mồ hôi cay mặn, những ngôn từ hay mẩu chuyện nơi bến cá, góc chợ; xồng xộc nồng nồng mùi vị cuộc sống. Như một nhà phê bình nhận xét: tác giả để nguyên quần xắn móng lợn, xông thẳng vào văn chương.
Cuộc sống ổn định dần, nơi chị sống có điện. Ba mẹ con cũng dành dụm được tiền mua tivi xem. Những lúc rảnh ngồi xem phim truyền hình, bà bán cá chép miệng: truyện phim thế này mình hoàn toàn viết được. Và chị viết thật...
Một lần, thấy thiếu tướng Phạm Hồng Thanh- Cục trưởng Cục Tư tưởng Văn hoá - Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng (nay là trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng) phát biểu trên tivi 'bằng giọng Quảng Bình'. Chị đánh liều gửi kịch bản tới chỗ ông đọc.
Thật bất ngờ, vài tháng sau, chị nhận được giấy mời tham gia Trại sáng tác Quân đội tại Đồ Sơn - Hải Phòng. Bán tivi và chiếc máy bơm nước, hai tài sản giá trị nhất trong nhà, chị hồ hởi lên đường.
Hàng ngày bằng cách hỏi han tiếp xúc, xem cách viết của các nhà biên kịch chuyên nghiệp, như cách dùng từ của chị: "ăn cắp" nghề. Chị loay hoay viết, 'bỏ qua giai đoạn kịch bản văn học, viết thẳng kịch bản truyền hình'.
Chính ở đây, chị gặp được những nhà văn, nhà biên kịch sau này chắp mối lương duyên cho chị đến với Trung tâm sản xuất phim truyền hình.
Năm 2006, VTV chiếu bộ phim "Miền quê thức tỉnh" (kịch bản phim gốc của Đậu Nữ Vệ là "Điều không thể mất") dài 18 tập. Sau bao nhiêu bươn chải vật lộn, người đàn bà bán cá mừng rơi nước mắt đón chờ tác phẩm của mình. Nhưng khi xem phần giới thiệu, tác giả kịch bản lại là... tên khác, Bùi Vệ Nữ. Chị khóc.
Đạo diễn Khải Hưng khi đó vẫn là Giám đốc của VFC gửi công văn vào Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình xin lỗi tác giả. Đại diện VFC và nhà văn Đậu Nữ Vệ cũng đã cùng nhau lên Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch làm việc, nhưng vụ việc cũng chẳng đi đến đâu.
"Chỉ những người trong hoàn cảnh mình, có khổ sở sôi từng giọt nước mắt, dày vò mấy tháng trời mới ra được một tập kịch bản, mới hiểu hết sự thất vọng của tôi, và biết vì sao tôi phải kiện", vẫn cái giọng oang oang, cười đấy mà buồn được ngay.
Giới văn đàn đưa ra nhiều bình luận, người bênh vực bà bán cá kiên trì; kẻ chép miệng thương những nhà biên kịch VFC 'làm ơn mắc oán'. Những người đã có lúc vừa xót xa vừa cảm phục người đàn bà vươn lên số phận, đã cùng chăm chút những dòng kịch bản đầu tiên cho chị, sau đó thành 'bên bị' trong vụ kiện tụng kéo dài.
Nếu trước đây chính sự chất phác của bà nông dân bán cá kéo những đôi tay đến, bây giờ cũng lại chính sự chất phác ấy mang phiền phức đến cho chị. Những phát ngôn kiểu "tôi sẵn sàng bán cả cái Đèo Ngang để theo kiện" khiến nhiều người vừa thương vừa e ngại nhà văn bán cá.
Sau khi oang oang ở VietNamNet hồi lâu, chị lại ôm hai bao tải sách và lạc lên xe ôm "đến nhiều nơi khác", không quên dặn đi dặn lại: Tối nay tôi sẽ mua mảnh chiếu ngủ ở bụi tre trước cửa Tòa án Nhân dân Quận Ba Đình để gặp bằng được chánh án. Các anh chị cần gặp tôi cứ ra đó.
Đêm ấy, vừa đọc mấy cuốn sách của chị, vừa lắng nghe bên ngoài mưa rơi như trút, tôi tự nhủ người đàn bà đang ngủ ngoài bụi tre thế nào. Sáng hôm sau gọi điện hỏi thăm, chị bảo: ướt một chút thôi. Rất thành tâm, tôi khuyên: hay chị bỏ cuộc đi, kiện tụng thế này biết đi đến đâu, đã nghèo lại thêm khổ, để thời gian và công sức đó viết tác phẩm khác.
Chị giãy nảy: không! chị không bỏ cuộc đâu.
Buổi chiều trước khi lên xe về Quảng Bình, chị gọi điện chào, tôi nhắc lại lời khuyên.
Chị trịnh trọng tuyên bố: Chị không bỏ cuộc, chị sẽ kiện VTV tới cùng!

Để “mọi quyền hành, lực lượng đều nơi dân”

Hồ Chí Minh đã khẳng định "quyền hành và lực lượng đều nơi dân" là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình dựng nước.
>>Hồ Chí Minh với bầu cử Quốc hội
Cách đây 64 năm, Hồ Chí Minh từng chân thành bộc bạch : "Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận".1 Chắc không dễ để "xin thừa nhận khuyết điểm đó", nhưng Hồ Chí Minh đã công khai viết điều đó lên báo.
Hôm nay, liệu có thể nói như Hồ Chí Minh : trong gần chín chục triệu người, chắc không thiếu người có tài có đức. Học theo Hồ Chí Minh, nếu vào dịp này, đưa được những người tài đức ấy tham gia vào "cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất" sẽ càng làm cho nhà nước của dân, do dân và vì dân càng có ý nghĩa thực tế chứ không là một khẩu hiệu suông.
Để làm được điều này, cùng với những điều vừa nêu, cần hiểu thật rõ về pháp quyền và nhà nước pháp quyền, điều mà Hồ Chí Minh đã nêu ra từ rất sớm như vừa trích dẫn ở trên.
Dân chủ phải được đảm bảo bằng luật pháp
Trong lịch sử của xã hội loài người, quyền con người và quyền công dân là những vấn đề có ý nghĩa bức xúc về thực tiễn cũng như về lý luận vì theo J.J Rousseau, nhà tư tưởng của thế kỷ khai sang : "Con người sinh ra đã là tự do, vậy mà ở khắp mọi nới con người lại bị cùm kẹp".
Từ khi cuốn "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, trong tư duy của loài người, quyền lực dường như vô hạn của vua, chúa đã bị hạ bệ với việc khẳng định quyền của dân, xuất phát từ dân, Nhà nước được xem như là người ký hợp đồng với quốc dân. Vậy là, trong trạng thái tự nhiên, con người sinh ra đã là bình đẳng, nhưng khi hợp thành xã hội, con người mất bình đẳng. Và rồi con người "chỉ trở lại bình đẳng nhờ có luật pháp". Đó là tuyên ngôn của những nhà "Khai Sáng".
Sự bình đẳng song hành cùng với tự do. Đương nhiên, trong liên hệ gắn kết với luật pháp của chế độ dân chủ, có mối liên hệ đan xen trực tiếp với tự do, mà tự do luôn là phạm trù chính trị -xã hội mang tính lịch sử cụ thể. Tuỳ trình độ của sản xuất và thành tựu của văn minh mà từng giai đoạn lịch sử khát vọng tự do của con người có thể thực hiện được đến đâu. Hồ Chí Minh thấm thía điều đó. Và từ sự nung nấu ấy mà trọn vẹn cả cuộc đời, Hồ Chí Minh dành cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho con người, thực hiện lý tưởng "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", đó là sự đúc kết khát vọng của con người, của loài người.
Trên con đường thực hiện mục tiêu cao cả đó, có không biết bao nhiêu trở ngại cần phải vượt qua. Trong đó, oái oăm thay, có những trở ngại do chính sự lạc hậu và lạc điệu của nhận thức về con đường thực hiện khát vọng tự do đích thực, về phương thức đấu tranh để giành tự do và thực hiện tự do cho con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể chứ không phải bằng những giáo điều đã học thuộc lòng nhưng đã bị cuộc sống vứt bỏ. Và rồi người ta sớm nhận ra một sự thật : nơi đâu luật pháp chưa được xác lập một cách công khai và minh bạch,được thực hiện một cách quang minh chính đại, nơi ấy chưa thể có tự do.
Với Montesquieu, dân chủ không chỉ là sự kết hợp được dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà là một nền dân chủ có sự ước chế lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội, một nền dân chủ được cụ thể hoá và được bảo đảm bằng pháp luật. Bước ngoặt mà nhà "khai sáng thuộc thế hệ thứ nhất" này tạo ra trong triết học chính trị và trong quan niệm về dân chủ được hiểu là dân chủ pháp quyền. Cũng có nghĩa là dân chủ chỉ có thể được thực thi khi người dân có một nhà nước đảm đương được sứ mệnh cao cả quản lý và hướng dẫn sự vận hành của mọi họat động xã hội. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng vĩ đại này được khởi nguồn từ diễn văn của Abraham Lincoln đọc tại nghĩa trang quốc gia Gettysburg của nước Mỹ ngày 19.11.1863 : "...chúng ta ở đây có quyết tâm cao độ để cho những người đã ngã xuống sẽ không chết một cách oan  uổng - rằng quốc gia này  sẽ có một cuộc sinh đẻ mới của tự do - và rằng chính quyền này của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, sẽ không biến mất khỏi trái đất này...". Tinh thần cơ bản của nó chính là kiểm soát quyền lực nhà nước là nội dung, cấu trúc và là tiêu chí của nền dân chủ. Quyền lực nhà nước ấy hướng tới sự bình đẳng, tự do, công lý và khoan dung. Đó chính là khát vọng của con người về một xã hội được tổ chức để cho con người có thể sống hạnh phúc.
Và cũng phải nói thêm rằng, có lẽ không nhiều dân tộc trên trái đất này từng phải trả một giá xương máu quá đắt như dân tộc ta để có được một nhà nước của dân , do dân và vì dân đích thực, để rồi khi cầm lá phiếu bầu những người đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ấy, mỗi người công dân với tư cách là một cử tri sẽ phải tự nhủ rằng "chúng ta ở đây phải có quyết tâm cao độ để cho những người đã ngã xuống sẽ không chết một cách oan uổng".
Pháp quyền ở trên Nhà nước
Để đảm bảo cho điều đó, phải xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực. Mà vấn đề cơ bản nhất, cũng là tư tưởng chủ đạo của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước. Theo nguyên lý của tư tưởng pháp quyền đó, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc "tam quyền phân lập". Mục đích của sự phân quyền đó là trong cơ cấu quyền lực có sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau nhằm tránh sự độc quyền, lạm quyền. Nhà nước và công chức chỉ làm được những điều luật pháp cho phép còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không cấm. Để đảm bảo dân uỷ quyền mà không mất quyền, không bị tiếm quyền thì công việc của nhà nước và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền tham gia vào việc hoạch định pháp luật, giám sát và kiểm soát. Toàn bộ những ý tưởng lớn đó được xác lập từ sự phân biệt giữa "nhà nước pháp quyền" với tất cả các kiểu loại nhà nước trước đó trong lịch sử loài người.
Nền tảng được xác lập để phân biệt thật rạch ròi chỉ ở một điểm : với nhà nước pháp quyền, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đây là xuất phát điểm để xác lập sự khác biệt căn bản giữa nhà nước pháp quyền với các kiểu loại nhà nước không pháp quyền.
Ở các kiểu loại nhà nước không pháp quyền, mệnh lệnh được ban ra trực tiếp từ chủ thể nắm giữ quyền lực dưới các hình thức như chiếu chỉ, sắc dụ, sắc lệnh, nghị quyết...thành văn bản hay mệnh lệnh được phát ngôn, đều là những mệnh lệnh tuyệt đối một chiều từ trên xuống, không có sự phản hồi, càng không thể có sự phản biện xã hội dưới bất cứ hình thức nào, hoặc nếu có thì chỉ là hình thức mị dân. Ở đó, quyền lực được tập trung vào độc quyền cá nhân (nhà vua) hay một nhóm người định đoạt mọi vấn đề của đất nước. Đồng thời, sự chuyển giao quyền lực giữa các chủ thể quyền lực là cơ chế nối truyền (gia đình, dòng tộc, các nhóm quyền lực cùng lợi ích), quần chúng nhân dân đứng ngoài tiến trình này. Hoàn toàn ngược lại với những điều ấy, với nhà nước pháp quyền, quyền lực là của nhân dân và chỉ ở nhân dân mà thôi.
Quyền hành và lực lượng đều nơi dân
Hồ Chí Minh đã khẳng định "quyền hành và lực lượng đều nơi dân" là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình dựng nước. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nghiêm khắc vạch ra : "Dân chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" 9. Dựa vào đâu mà thực hiện điều "động trời" này? Dựa vào "pháp quyền". Đây là một cột mốc trong tư tưởng về nhà nước.
Tư tưởng ấy chính là nền tảng của nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh là người đặt những viên gạch đầu tiên. Tuy nhiên, mãi đến Đại hội VIII của Đảng, khái niệm "nhà nước pháp quyền" mới chính thức đi vào đời sống chính trị của nước ta, đánh dấu một cột mốc trong tư duy về Nhà nước của Đảng trở lại với nguyên lý mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ những ngày chính quyền cách mạng còn trong trứng nước. Và Hồ Chí Minh đã chứng minh sống động tư tưởng ấy trong thực tiễn của cách mạng, kháng chiến và xây dựng đất nước.
Quá trình đến được với tư tưởng nhà nước pháp quyền, từ lúc manh nha cho đến lúc chính thức được đưa vào Hiến pháp sửa đổi, vào Nghị quyết phải mất hơn nửa thế kỷ, là một minh chứng quá cụ thể và không kém phần xót xa. Mặc dầu với tầm cao của tư duy Hồ Chí Minh, tư tưởng nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong Tuyên Ngôn Độc Lập 2.9.1945, trong Hiến pháp 1946, nhưng rồi sau đó nó bị chìm đi cho mãi đến mươi năm trở lại đây mới chính thức được khẳng định trở lại.
Khi đất nước chúng ta đang đẩy tới quá trình hội nhập đi vào chiều sâu với vị thế mới trên trường quốc tế và khu vực thì cùng với những phấn đấu không mệt mỏi trong phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của nhân dân ta, mức sống vật chất và mức sống tinh thần, thì việc xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực với nền móng vững chắc của nó như một số quốc gia đã đạt tới là một đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Xét đến cùng, những "cam kết" với quốc tế không gì khác là những ràng buộc về pháp lý. Đó là một trong những thử thách lớn nhất khi nước ta chủ động dấn bước trên con đường hội nhập mà bước ngoặt quan trọng là gia nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới. Khi đã là thành viên thứ 150 của WTO rồi, thì thực hiện những cam kết không những là nghĩa vụ mà còn là danh dự quốc gia, trong khi đó, chất lượng pháp luật và năng lực thể chế lại là cái mà chúng ta đang phải khắc phục những yếu kém để có thể không lạc hậu và lạc điệu với các chuẩn mực quốc tế.
Chỉ cần dẫn ra những điều mà có lần một vị Chánh án TANDTC tường trình về sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ thẩm phán, những người nắm "cán cân công lý", khiến phải "cố vơ vét, bổ nhiệm cho đủ" là có thể thấy rõ điều đó. Thậm chí "có khi lái xe, đánh máy đưa lên làm thẩm phán. Thế là lại phải cho họ đi học tại chức rồi về phải"đôn" họ lên"! Không chỉ có thế, "về hệ thống pháp luật, chúng ta đã cố gắng làm rất nhiều nhưng có phải tất cả các lĩnh vực xã hội đều đã có pháp luật điều chỉnh đâu. Các luật chuyên ngành có mâu thuẫn với luật gốc, luật cơ bản hay không? Các quy phạm đã rõ ràng, rành mạch, hiểu theo một nghĩa chưa? Một quy định mà công an hiểu thế này, viện kiểm sát hiểu thế kia, tòa án hiểu thế khác, hội đồng sơ thẩm hiểu một kiểu, cuối cùng phải biểu quyết" 10 . Quả thật đây là một thực trạng đáng báo động . Những sự kiện gần đây càng cho thấy sự bức xúc ấy.
Hơn nữa, có một thực tế mà ai cũng thấy: vi phạm quyền dân chủ là thói quen khó bỏ của người nắm quyền. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước, xét cho kỹ, tự thân nó đã chứa đựng một khả năng lạm quyền, chuyên quyền. Cho nên trong thực tế, bất kỳ một loại quyền lực nào cũng có khuynh hướng tăng cường hơn nữa, tăng cường vô hạn độ quyền lực của mình, cả trên bình diện cá nhân cũng như trên bình diện tổ chức. Đấy là chưa nói đến một thực tế phũ phàng đã từng được đúc kết thành quy luật : "Quyền lực có xu hướng tham nhũng. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối" [Lord Acton]. Thực hiện nguyên lý "pháp quyền ở trên nhà nước" làm điểm tựa cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là tiền đề quyết định để khắc phục dần và đi đến xóa bỏ thực tế phũ phàng đó.
Kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay đúng vào dịp cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII, nhắc lại tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền và nhà nước pháp quyền chính là cách thiết thực học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sống động nhất.

'Đột nhập' bãi đá cổ bí ẩn ở Hà Giang

Bãi đá cổ Nấm Dẩn ở Hà Giang có những tảng đá lớn khắc nhiều hình thù bí ẩn, từ lâu đã trở thành điểm đến hấp dẫn với những du khách ưa khám phá.

Từ thị trấn Cốc Pài huyện Xín Mần, xuôi về phía Nam 18km, chúng ta có thể đặt chân đến bãi đá cổ Nấm Dẩn. Bãi đó nằm ở ven suối Nậm Khoòng, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nó còn được gọi với cái tên khác là "Nà Lai", nghĩa là "Ruộng nhiều chữ". Cùng với bãi đá cổ ở Sapa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn được công nhận là di sản quốc gia.

Di tích có hình khắc đá (Ảnh: Đất Việt)

Những di tích cự thạch nằm giữa dãy núi Tây Đản phía Bắc và dãy núi đồi Nấm Dẩn phía Nam, trải dài theo con suối. Rải rác, lên cao dần là những khối đá có hình dáng lạ kỳ. Khối thì vuông dài như 1 chiếc phản rộng, có khối lại là đá đen khổng lồ giữa mặt đen tương đối phẳng nổi lên những mảng đá trắng đục như 1 tấm bản đồ bí ẩn...

Có khoảng 7 phiến đá lớn và 2 cự thạch (tảng đá cực lớn) trên đó có khắc vẽ khoảng hơn 80 hình và khoảng 80 lỗ vũm. Các hình vẽ và lỗ vũm được các nhà khảo cổ học cho rằng được tạo ra bằng cách dùng đục sắt và búa tác động vào đá. Niên đại của các hình vẽ được cho rằng trên 1.000 năm.
Ô vuông khắc chìm tìm thấy trong bãi đá Sapa (Ảnh: Đất Việt)

Các hình vẽ trên đá gồm các dạng: hình học (như hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông, ..); hình hoa văn hình vuông và tròn, những vạch đục khắc song song, những biểu tượng sinh thực khí (hầu hết là biểu tượng nữ tính, với hình tam giác có rãnh dọc ở giữa); hình bàn chân người với kích thước như thật có ngón chân khắc lõm sâu vào trong đá, hình người trong tư thế giơ hai tay dạng hai chân như trong các bích họa thời tiền sử, những hình khắc chưa xác định được hình dáng. Phong cách tạo hình và mô típ đề tài của các hình khắc vẽ ở Nấm Dần được các nhà khoa học cho là tương tự như hình ở bãi đá cổ Sa Pa.

Ở đây, có 3 khối đá lớn khắc nhiều ký tự lạ trên mặt đá. Dấu vết phong hóa trên bề mặt các khối đá được các nhà khoa học chứng minh là những hình vẽ trên đá đã sáng tác cách đây trên 1.000 năm và chưa thể giải mã và tìm ra chủ nhân của hình vẽ. Bãi cự thạch Nấm Dẩn là loại hình di tích khảo cổ có niên đại khoảng 2.000 năm và rất hiếm có ở Việt Nam. Đây có thể là di tích mộ thủ lĩnh cộng đồng hoặc khu đất thiêng thờ cúng các vị thần linh bản địa.

Vết khắc hình bàn chân người. (Ảnh:xaluan.vn)

Đến đây, du khách có thể đi bộ thăm bãi đá và các bản làng của người Nùng, Mông. Khi lên đến giữa bãi đá cổ, có thể chiêm ngưỡng chiếc “ngai đá” khổng lồ tuyệt đẹp, sự sắp xếp kỳ thú của thiên nhiên. Và đặc biệt, đặt chân đến nơi này, mỗi du khách rất có thể thỏa sức tưởng tượng và đưa ra những giả thuyết của mình trước những hình vẽ của bãi cự thạch độc đáo này.

Theo Đất Việt

Dân chủ cho ai? Pháp quyền vì ai?

- Ngày 22/5, cử tri cả nước đi bầu cử Quốc hội khoá XIII và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016. Đây là ngày hội làm chủ đất nước của nhân dân ta, để mỗi cử tri gửi gắm niềm tin vào lá phiếu để bầu ra Nhà nước của mình và Nhà nước đó phục vụ chính bản thân mình.
Nhân sự kiện chính trị quan trọng này, VietNamNet trân trọng giới thiệu bài viết Dân chủ cho ai? Pháp quyền vì ai? của nhà báo Hồ Quang Lợi.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện Đảng cộng sản độc tôn lãnh đạo

Chúng ta đã xác lập cơ chế đúng đắn Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhưng việc vận hành cơ chế này sao cho khoa học, nhịp nhàng, thông suốt và có hiệu quả là cả tổng thể một loạt vấn đề rất hệ trọng vì nó liên quan, tác động trực tiếp đến những khía cạnh nhạy cảm, phức tạp và căn cốt nhất của thể chế, của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Vận mệnh của chế độ XHCN, tương lai của đất nước đòi hỏi phải nhìn thẳng vào sự thật, vừa thấy được thành tựu để phát huy, vừa nhận diện thật rõ những bất cập, những sai lầm, thiếu sót, những trở lực để hóa giải, khắc phục với những bước đi phù hợp.
Quá trình 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng cùng yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế càng cho thấy rõ cơ cấu quyền lực cũng như cơ chế vận hành bộ máy quyền lực của đất nước hiện thời đang đứng trước những đòi hỏi mới vô cùng nóng bỏng.

Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Báo cáo Chính trị cũng nhấn mạnh: Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Bài học cốt tử: Dân là gốc
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN ở nước ta.
Điều gì đã giúp cho Nhà nước ta vượt qua tất cả những thử thách cam go, tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc” trong các cuộc chiến tranh cứu nước trước đây cũng như ở thời điểm “chuyển dời dâu bể” sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam phải tự đứng vững và tìm lấy con đường đi tới CNXH của mình?
Một trong những nhân tố quan trọng nhất là sự gắn bó máu thịt của toàn dân ta với Nhà nước của mình. Đó là Nhà nước do chính dân ta gây dựng nên và Nhà nước đó lại phục vụ chính dân ta. Cội nguồn mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là do Đảng ta đã kế thừa và phát huy cao độ bài học lấy dân là gốc đã được cha ông đúc kết từ nghìn xưa. Trước chúng ta sáu thế kỷ, Nguyễn Trãi đã từng viết: "Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân". Giữa thế kỷ 20, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Trên bầu trời không có gì quý́ bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Ở mọi thời đại, trong mọi giai đoạn lịch sử, bài học lấy dân là gốc luôn là điều cốt tử!
Hôm nay, bài học này vẫn đang nóng bỏng tính thời sự.
Mặc dù Đảng ta luôn nêu cao bài học lấy dân là gốc, xác định dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của chế độ ta, nhưng trên thực tế, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào thì hiện tượng hạn chế, vi phạm quyền dân chủ của người dân không phải là cá biệt, thậm chí có những nơi rất nhức nhối. Đây đó, bài học lấy dân là gốc đang trở nên mờ nhạt. Đói nghèo và nhất là bất công xã hội đang là điều u uất ở không ít nơi.
Không thể không nhận thấy rằng trong xã hội ta vẫn còn tồn tại tình trạng "mù mờ luật pháp", người dân không biết thật sự mình có quyền gì, còn không ít người trong bộ máy công quyền thì lợi dụng sự "mù mờ luật pháp" đó của người dân cũng như những khe hở của luật pháp để tự cho mình quyền hành xử sai trái. Trong xã hội mà pháp luật có vị trí tối thượng thì công dân có quyền được biết một cách công khai, rõ ràng mình có quyền gì và phải thực hiện nghĩa vụ gì. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, hoạt động lập pháp về quyền, nghĩa vụ công dân cần hướng tới nguyên tắc quan trọng: công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm; còn trong quan hệ với công dân thì cơ quan Nhà nước, công chức chỉ được làm những gì pháp luật quy định.
Để xây dựng một xã hội dân chủ, để cho tư tưởng lấy dân là gốc không phải là lời nói suông, không phải là mỹ từ có tính chất tuyên truyền thì vấn đề cốt yếu là phải xây dựng, từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là một xã hội thượng tôn pháp luật, một xã hội mà không ai được phép đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật và mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm mục đích cao nhất là vì hạnh phúc của nhân dân.
Đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển là sự xác định dứt khoát của Đảng và Nhà nước ta. “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn nhân lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” là quan điểm có ý nghĩa xuyên suốt trong chiến lược phát triển đất nước mà Đại hội XI của Đảng đã xác định.
Chặng đường một phần tư thế kỷ đầy thách thức và sáng tạo vừa qua là minh chứng hùng hồn rằng công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo không phải là một khẩu hiệu chính trị khô khan, mà đã trở thành cây đời ăn sâu bén rễ trong lòng người. Đổi mới đang trở thành sức mạnh lan tỏa, được nhân lên và cộng hưởng trong cộng đồng dân tộc. Khi GDP tính theo đầu người đạt 1.168 USD, nước ta đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo có thu nhập thấp. Điều quan trọng là, trong khi vốn tích lũy của ta chưa nhiều nhưng dân ta vẫn được hưởng trái ngọt đầu mùa của công cuộc đổi mới. Quan điểm vì dân, vì chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân được thể hiện rất rõ ràng trong mọi quyết sách.
Chúng ta không chủ trương tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Phát triển bền vững là hướng đi không thể khác. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia thành công nhất trong trận chiến xóa đói giảm nghèo, giải quyết khá hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Đó trước hết là vì Đảng ta luôn thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc, “khoan sức dân” làm kế lâu bền. Đó là minh chứng rõ ràng nhất của quan điểm lớn xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Phản biện xã hội ngay từ khi hoach định chính sách
Để mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân thì vấn đề nhân dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước là rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện Đảng cộng sản độc tôn lãnh đạo, nếu kết hợp tốt giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận thì sẽ làm phong phú thêm sinh hoạt dân chủ trong xã hội, làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta.
Có một thực trạng là không ít người nắm quyền lực thường dễ rơi vào tình trạng “không muốn nghe lời ngược”. Vì thế, ngoài quy chế dân chủ ở cơ sở đang thực hiện, hiện nay việc xây dựng đề án phản biện xã hội của MTTQ là nhằm tạo ra một cơ chế hiệu lực đối với các cấp có quyền lực. Khi đã có một cơ chế phản biện rõ ràng thì MTTQ và các đoàn thể đủ điều kiện để phản biện lại trước các quyết định không phù hợp, đưa ra những chứng lý có sức thuyết phục cao. Như thế cũng có nghĩa là không phải đợi khi chính sách đã đưa vào cuộc sống, thấy sai rồi mới phản biện.
Chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải bao hàm cả việc xây dựng và thực hiện cơ chế phản biện xã hội. Tư tưởng dân là gốc phải bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp đến là đề ra các biện pháp thực hiện, cuối cùng là kiểm tra, giám sát quá trình và hiệu quả thực hiện. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã nêu rõ cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước và nhấn mạnh cần hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, cần hết sức lưu ý một thực trạng nữa không kém phần nghiêm trọng là trong khi “mở rộng dân chủ” thì nhiều nơi lại kéo theo sự buông lỏng quản lý, coi thường kỷ cương, phép nước. Để khắc phục điều này, có thể thấy, một trong những nét nổi bật nhất trong phong cách lãnh đạo mới ngày càng rõ nét là việc chọn đúng những khâu, những việc trọng điểm, cần kíp nhất; thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; rồi tổ chức thực hiện kiên quyết, dứt khoát; có kiểm tra, giám sát, uốn nắn kịp thời. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, địa bàn mà nổi bật gần đây là tại Thủ đô. Nếu không theo phong cách đó thì Hà Nội khó lòng mà xử lý dứt điểm và triệt để các vụ việc phức tạp và bức xúc. Đồng thời lãnh đạo Hà Nội cũng tỏ rõ thái độ cầu thị, lắng nghe dư luận xã hội, cân nhắc thận trọng cách thức xử lý các vấn đề nóng, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân.
Cuộc đấu tranh không khoan nhượng trước hết trong nội bộ Đảng

Chúng ta đã và đang đấu tranh quyết liệt, nhưng tệ quan liêu, tham nhũng, thói đặc quyền đặc lợi, vô trách nhiệm, vô cảm, sự tù đọng trong tư duy và trì trệ trong hành động... vẫn đang lộ diện như một nguy cơ lớn kìm hãm công cuộc đổi mới. Khi đất nước phải đương đầu với nhưng thử thách mới, trận chiến chống tham nhũng, tiêu cực càng nóng bỏng.
Đó trước hết là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng trong nội bộ Đảng. Cuộc đấu tranh này thử thách bản lĩnh của một đảng cầm quyền. Cuộc kiến tạo lớn sẽ không thể tiến bước nếu bộ máy của ta quá cồng kềnh, đủng đỉnh, nếu chúng ta không loại bỏ được những kẻ tham ô hám lợi, những kẻ vô trách nhiệm, vô cảm trước nỗi bất hạnh và đau khổ của người dân. Kết quả của cuộc đấu tranh này sẽ củng cố, khôi phục và tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Những năm qua, một loạt kẻ phạm tội không kể ở cấp nào đã bị đưa ra xét xử nghiêm minh trong một số vụ án lớn. Những biện pháp chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực được triển khai một cách mạnh bạo, tích cực ở một số ngành, địa phương, dù được dư luận cả nước đồng tình ủng hộ, nhưng cũng chỉ như những chồi non mới nhú cần được tiếp tục bảo vệ, cổ vũ, khích lệ mạnh mẽ hơn nữa để dần dần trở thành một hiện thực sống động và vững chắc lan rộng ra nhiều vùng miền, như ánh sáng xua tan bóng tối.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 mà Đại hội XI thông qua đã xác định những biện pháp: Hoàn thiện thể chế, luật pháp, nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức; công khai, minh bạch tài sản của cán bộ, công chức; tăng cường công tác giám sát các công việc có liên quan đến ngân sách, tài sản của Nhà nước; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan chức năng, khuyến khích phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí.

Dân chủ gắn liền với kỷ cương

Một xã hội thật sự dân chủ trên cơ sở một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là tiền đề quan trọng, là nhân tố đảm bảo để chúng ta giải phóng và phát huy những nguồn lực to lớn, sức lao động, sáng tạo sung mãn của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo chuyển biến mạnh về cải cách hành chính đã được Đại hội XI của Đảng xác định là một nhiệm vụ trọng yếu và cấp thiết, trong đó tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, đảm bảo quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Mở rộng dân chủ không thể không gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Một điểm mới nổi bật là Đại hội XI của Đảng chủ trương mở rộng dân chủ, thực hiện cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế; tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân.

Nhìn lại chặng đường 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH - một cương lĩnh ra đời trong thời điểm thử thách hết sức hiểm nghèo - chúng ta càng thấy rõ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng vượt khó của toàn dân tộc dưới sự chèo lái của Đảng cộng sản Việt Nam. Chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như ngày nay. Đó thực sự là một kỳ tích! Kỳ tích được làm nên trước hết từ bài học dân là gốc!
Thế nước đang lên!
Thế nước của ta là thế nước của một quốc gia nằm ở điểm hội tụ của những nền văn minh lớn, của những luồng giao lưu quan trọng, của những mối quan hệ quốc tế phức tạp và nhạy cảm nhất. Vận hội là đây, thử thách cũng là đây! Đó là thế của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến, có truyền thống yêu nước nồng nàn, biết hy sinh vì nghĩa lớn, biết đoàn kết đùm bọc lẫn nhau. Đó là thế của một đất nước tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, hướng ra biển Đông mênh mông, tài nguyên phong phú, đất đai màu mỡ... Trong cái thế đó ẩn chứa những nguồn lực dồi dào, mà nguồn lực quý báu nhất, quyết định nhất là con người Việt Nam cần cù, thông minh, quả cảm, năng động, giàu lòng nhân ái.
Trước đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới, và khi tốc độ hội nhập của đất nước ngày càng tăng lên thì toàn thể hệ thống cần được nâng cấp lên trình độ mới. Hiệu quả và năng lực cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào sự vận hành nhịp nhàng của từng bộ phận trong toàn bộ guồng máy: từ giáo dục, đào tạo, tổ chức đến sử dụng để đất nước có một đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm, trong đó có nhiều người ngày 22/5/2011 được nhân dân tín nhiệm bầu vào bộ máy nhà nước các cấp. Những “công bộc” này cần thấm nhuần tư tưởng lấy dân là gốc, làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: Những gì có lợi cho dân thì phải gắng sức làm, những gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.
Hồ Quang Lợi
 
Cả nước đã sẵn sàng cho ngày bầu cử. Ảnh: Duy Linh
Nhân dân ta thực hiện quyền làm chủ đất nước thực sự của mình như thế nào? Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện Đảng độc tôn lãnh đạo ra sao?