Powered By Blogger

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Người rất “nhàn” nên rất “sâu”


PGS.TS Vũ Văn Quân
Gặp PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ, tác giả của công trình “Thăng Long – Hà Nội thế kỉ XVII – XVIII – XIX” vừa được tặng giải thưởng Nhà nước, ai cũng thấy vui, thấy yêu đời. Ông làm việc hết mình, nghiêm túc, trách nhiệm, hiệu quả. Ông gần như không bận tâm vào sự thiệt hơn mất được đời người. Vì thế mà ông rất “nhàn”. Và có lẽ bởi “nhàn”, nên ông rất “sâu”.
PGS.TS.NGƯT Nguyễn Thừa Hỷ sinh năm 1937, giữa “không gian lõi” của “Hà Nội nghìn xưa” (phố Hàng Cót, quận Ba Đình), quê gốc làng Hạ Đình (nay thuộc quận Thanh Xuân), mẹ người làng La Phù (Hà Tây cũ). Tốt nghiệp phổ thông ở một trong ba trường cấp ba danh giá nhất Hà Nội bấy giờ (trường Nguyễn Trãi, cùng với trường Chu Văn An, Trương Vương), ông trở thành sinh viên Khoá I của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cùng lớp với những tên tuổi nổi danh của ngành sử sau này, như GS.NGND Phan Đại Doãn, GS.NGND Vũ Dương Ninh, PGS.NGND Lê Mậu Hãn, PGS.NGƯT Phạm Thị Tâm… Truyền rằng, ở khoá đầu tiên này của Khoa Lịch sử, ông là một trong những người học giỏi nhất. Nhưng khác với nhiều bạn bè, tốt nghiệp xong ông được điều động đi dạy sử phổ thông. Ba mươi năm dạy học, công tác ở các Ty/Sở giáo dục Hà Nam, rồi Hà Nội, mãi tới năm 1990, khi đã 53 tuổi, ông mới về làm cán bộ giảng dạy tại Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Khoa Lịch sử, theo lời mời của GS Phan Huy Lê, bấy giờ là Chủ nhiệm Bộ môn.

Tưởng như làm thầy giáo phổ thông, dạy thôi chứ không cần phải nghiên cứu. Nhưng ông đã không “an phận”. Với niềm đam mê khoa học, những kiến thức tích luỹ được – nhất là từ sách vở viết bằng chữ Anh, chữ Pháp – và năng lực thâu nhận trời phú, ông âm thầm viết, không nhiều, nhưng sâu sắc. Rồi từ đầu những năm tám mươi, ông quyết định làm nghiên cứu sinh (trong nước). Bấy giờ nghiên cứu sinh, nói chung và riêng ngành sử, còn hiếm. Ông chọn Hà Nội – mảnh đất ông sinh ra và lớn lên, chứng kiến nhiều đổi thay – làm đối tượng nghiên cứu. Đầu năm 1984, luận án “Thăng Long – Hà Nội thế kỉ XVII – XVIII – XIX: kết cấu kinh tế – xã hội của một đô thị trung đại” của ông được đưa ra bảo vệ, thuộc số những luận án Tiến sĩ (bấy giờ gọi là Phó Tiến sĩ) đầu tiên của Khoa Lịch sử. Tôi nhớ, hôm bảo vệ luận án (tại 19 Lê Thánh Tông) có rất đông người dự, có mặt rất nhiều gương mặt lớn của ngành sử. Sau, đến năm 1993, công trình này được xuất bản thành sách và lập tức giành được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Đến nay, gần 20 năm trôi qua, nó trở thành cuốn sách không thể không đọc, không nhắc đến, không trích dẫn trong những nghiên cứu về Thăng Long – Hà Nội, nhất là trong các thế kỉ XVII, XVIII, XIX.

Trong công trình này, bằng việc khai thác đa dạng các nguồn tư liệu, nhất là nguồn tư liệu viết bằng chữ phương Tây (Anh, Pháp), được xử lí cẩn trọng, có phương pháp và hiệu quả cao, công trình đã phác hoạ được diện mạo của Thăng Long – Hà Nội qua các thời kì, nhất là các thế kỉ XVII – XVIII – XIX, làm nổi bật được kết cấu kinh tế – xã hội, các hoạt động kinh tế của Thăng Long – Hà Nội các thế kỉ XVII – XVIII – XIX, chính sách của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với vấn đề này qua trường hợp Thăng Long – Hà Nội. Những phân tích sắc sảo về kết cấu kinh tế, cấu trúc xã hội, cơ chế đẳng cấp và sự giao lưu đẳng cấp; những khái quát về các nhân tố phát triển và hưng khởi của thành thị, về mối quan hệ thành thị – nông thôn, về thế lưỡng hợp nhà nước – dân gian trong thành thị, về dạng thức phát triển và chuyển biến của thành thị trở thành những luận đề quan trọng, có ảnh hưởng rộng rãi trong giới nghiên cứu trong nước, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh khi tiếp cận lịch sử xã hội Việt Nam thời kì trung đại.

Công trình đã có đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của ngành Hà Nội học. Là một nghiên cứu xuất sắc về Thăng Long – Hà Nội, công trình có thể coi là một chuyên khảo mẫu mực về lịch sử Thăng Long – Hà Nội với tư cách một đô thị đóng vai trò trung tâm chính trị – hành chính của đất nước. Tuy công trình tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, nhưng ở hầu hết các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế – xã hội của Thăng Long – Hà Nội đều được khái quát trong toàn bộ tiến trình lịch sử, tạo nên một bức tranh tương đối toàn cảnh về kết cấu kinh tế -xã hội của đô thị này. Trong số hàng trăm chuyên khảo về Thăng Long – Hà Nội đến nay, công trình này có thể coi là một trong các nghiên cứu xuất sắc nhất, đánh dấu một bước tiến lớn của ngành Hà Nội học.

Công trình đã được dịch sang tiếng Anh (Nhà xuất bản Thế giới ấn hành, 2002), được nhiều học giả và bạn đọc của nhiều nước biết đến, góp phần quảng bá lịch sử và văn hoá Việt Nam nói chung, lịch sử và văn hoá Thăng Long – Hà Nội nói riêng với bạn bè quốc tế. Gần đây, công trình được bổ sung và xuất bản trong “Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến” nhân đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, tiếp tục được giới nghiên cứu và bạn đọc đánh giá cao.

Ở tuổi 75, tay yếu chân yếu, nhưng ông Nguyễn Thừa Hỷ vẫn minh mẫn lạ thường. Chỉ ngồi nhà nhưng ông lướt web đều đặn, dùng cả điện thoại bàn lẫn di động, chuyện thế giới, chuyện quốc gia, chuyện trường, chuyện khoa, chuyện nhân sự lớn bé… ông đều biết cả (mà có khi còn biết trước). Và đặc biệt, ông vẫn viết, từ bài nghiên cứu đến sách. Hồi nghìn năm Thăng Long – Hà Nội, ông chủ biên cuốn sách “Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội: tuyển tập tư liệu phương Tây” dầy cả nghìn trang, được đánh giá rất cao, và mới mấy hôm trước thôi, ông in “Văn hoá Việt Nam truyền thống – một góc nhìn”, hơn nửa nghìn trang. Ngoài ra ông còn dịch, hiệu đính các tác phẩm nổi tiếng của các học giả nước ngoài về Việt Nam.

Đọc Nguyễn Thừa Hỷ, người ta thấy rất rõ sự uyên bác của tri thức và sự lịch lãm trong văn chương, nhất là những công trình về lịch sử và văn hoá Thăng Long – Hà Nội. Có lẽ đó là sự kết hợp và thẩm thấu của một văn hoá Thăng Long nghìn xưa với một văn hoá thị dân Hà Nội khá thuần thục thời cận đại.

Thấu đáo hơn khi nghĩ bằng tiếng nước ngoài


Theo Wired Science, online ngày 24/4/2012
Brandon Keim
Một loạt các thí nghiệm trên 300 người Mỹ và Hàn Quốc cho thấy suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài giúp người ta giảm được những sai lầm cố hữu trong tư duy, vốn ảnh hưởng rất nhiều tới những đánh giá về mặt lợi và mặt hại trong nhận thức của con người.
“Khi suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài, liệu bạn có đưa ra cùng một quyết định như khi suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ?” là câu hỏi được đặt ra bởi các nhà tâm lý đứng đầu là Boaz Keysar từ Đại học Chicago, trong một nghiên cứu công cố ngày 18/4 trên tạp chí Psychological Science.

“Theo trực quan, người ta cứ nghĩ là con người sẽ đưa ra cùng một lựa chọn, cho dù suy nghĩ theo ngôn ngữ nào, hoặc chúng ta sẽ cho là những khó khăn khi phải nghĩ bằng tiếng nước ngoài sẽ khiến các lựa chọn đưa ra một cách thiếu chặt chẽ. Nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, điều ngược lại mới đúng: suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài giúp giảm bớt những thiên lệch”, nhóm nghiên cứu của Keysar viết trong báo cáo.

Các nhà tâm lý cho rằng tư duy của con người được định hình bởi hai trạng thức tư duy: một trạng thức thiên về tính hệ thống, phân tích, có tính lý trí cao; còn trạng thức thứ hai thì nhanh hơn, mang tính vô thức, và bị ảnh hưởng bởi tình cảm.

Với cơ sở như vậy, sẽ hợp lý nếu chúng ta cho rằng việc suy nghĩ bằng lý trí trên một ngôn ngữ không phải ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ làm tốn năng lượng tinh thần hơn, khiến người ta tăng sự phụ thuộc vào những suy nghĩ nhanh chóng và cảm tính.

Nhưng ngược lại, cũng có thể việc tư duy bằng ngôn ngữ của nước ngoài khiến người ta càng phải suy nghĩ một cách thận trọng, qua đó giảm bớt vai trò của những bản năng cảm tính. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng trước những ngôn từ có tính tình cảm, cảm xúc của con người bị triệt tiêu nếu đó là những ngôn từ không phải tiếng mẹ đẻ, qua đó càng giúp người ta suy nghĩ được chín chắn hơn.

Để điều tra những khả năng trên, nhóm nghiên cứu của Keysar đã xây dựng vài thí nghiệm dựa trên các kịch bản của Daniel Kahneman, người dành giải Nobel về kinh tế năm 2002 nhờ công trình lý thuyết về viễn cảnh, trong đó mô tả nhận thức trực quan của con người về các rủi ro.

Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman cho thấy, khi đặt ra lựa chọn có tính giả định, giữa một bên là chắc chắn cứu được 200 trong số 600 người, bên kia là một cơ hội để hoặc là cứu 600 người, hoặc là không cứu được ai, con người thường có xu hướng theo lựa chọn thứ nhất, đó là chắc chắn cứu 200 người – tuy nhiên, khi thay đổi cách diễn đạt cho lựa chọn thứ nhất, đó là chắc chắn để mất 400 người, thì đa số lại muốn đi theo lựa chọn thứ hai, cứu 600 người, hoặc là để mất tất cả.

Con người nhìn chung đều có bản năng chọn giải pháp có vẻ ít rủi ro hơn khi cân nhắc lợi và hại trước một nguy cơ mất mát. Điều này thuần túy mang tính cảm tính. Vậy thì nếu suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài khiến người ta tư duy kém chặt chẽ hơn, nhóm nghiên cứu Keysar đặt ra giả thuyết là những yếu tố cảm tính sẽ càng gia tăng ảnh hưởng. Ngược lại, nếu suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài khiến người ta suy nghĩ thận trọng hơn, những yếu tố cảm tính sẽ bị giảm bớt.

Thí nghiệm đầu tiên bao gồm 121 sinh viên Mỹ đã được học tiếng Nhật. Một số người được giao cho một đề bài bằng tiếng Anh: để chống lại một bệnh dịch sẽ làm chết 600 nghìn người, các bác sĩ phải chọn giữa hai loại thuốc: loại thứ nhất có khả năng cứu 200 nghìn người; loại thứ hai có 33,3% cơ hội cứu được 600 nghìn người, và 66,6% không cứu được ai.

Có tới 80% số sinh viên chọn giải pháp thứ nhất. Nhưng khi vấn đề được diễn đạt theo cách khác, khi phương thuốc cứu được 200 nghìn người được diễn đạt thành để mất 400 nghìn người, số người chọn giải pháp thức nhất rơi xuống chỉ còn 47%.
Tuy nhiên, với cùng một vấn đề khi được đặt ra bằng tiếng Nhật, số lượng người chọn giải pháp thứ nhất là 40% cho cả hai cách diễn đạt. Như vậy, yếu tố cảm tính đã được giảm bớt.

Hai thí nghiệm tiếp theo được đặt ra trong tình huống giả định về khả năng con người bị mất việc thay vì bị chết, được đưa ra bằng tiếng Hàn cho 144 sinh viên Hàn Quốc ở Đại học Quốc gia Chung Nam, và bằng tiếng Anh cho 103 sinh viên Hàn Quốc du học ở Paris, người ta nhận được cùng một xu hướng kết quả. “Đứng trước một vấn đề bằng tiếng nước ngoài, tính cảm tính trong suy nghĩ của con người được giảm bớt”, viết trong bài báo của nhóm Keysar.

Các nhà nghiên cứu tiếp tục kiểm tra tác động của ngôn ngữ tới những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích cá nhân của chủ thể. Theo lý thuyết viễn cảnh, người ta không muốn bị mất mát nhỏ, dù là có khả năng được lợi lớn hơn. Hiện tượng này được gọi là thận trọng cận thị, có bản chất xuất xứ từ những cảm xúc về sự mất mát. 

Người ta đặt ra cho cùng một nhóm sinh viên Hàn Quốc nói trên, một loạt những khoản cá cược mang tính giả định, trong đó khoản mất đi khi thua cược là nhỏ, còn khoản thắng cược là rất lớn. Khi khoản cá cược được diễn đạt bằng tiếng Hàn Quốc, chỉ 57% sinh viên theo cược. Nhưng khi được diễn đạt bằng tiếng Anh, con số tăng lên thành 67%, càng cho thấy con người tư duy kỹ càng hơn khi suy nghĩ bằng tiếng nước ngoài.
Để kiểm tra xem quy luật trên có đúng trong đời thực không, nhóm nghiên cứu của Keysar đã làm thí nghiệm trên 54 sinh viên Đại học Chicago, những người coi tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thứ hai. Mỗi người được nhận 15 tờ 1 USD. Họ được quyền giữ lại, hoặc đem đặt cược cho một vụ cược tung đồng xu. Nếu thua cược, họ bị mất 1 USD. Nhưng nếu thắng họ được nhận lại tờ 1 USD, và được thêm 1,5 USD – một đề xuất có vẻ là sẽ đem lại lợi nhuận nếu người ta đặt cược nhiều lần.

Khi các vụ cá cược này được diễn đạt bằng tiếng Anh, có 54% sinh viên tham gia đặt cược. Nhưng khi diễn đạt bằng tiếng Tây Ban Nha, số người đặt cược tăng thành 71%. “Khi được thông tin bằng tiếng nước ngoài, họ đặt cược nhiều hơn vì tư duy thấy rằng nhiều khả năng sẽ dành được lợi hơn là thiệt, và những ấn tượng cảm tính về nguy cơ mất mát ít gây tác động hơn”, viết trong bài báo của Keysar và các cộng sự.

Các nhà nghiên cứu tin rằng nguy nghĩ bằng tiếng nước ngoài sẽ tạo ra một khoảng cách ly hữu ích giữa nhận thức với những tiến trình vô thức, thúc đẩy suy nghĩ duy lý, giảm bớt những phản ứng cảm tính.

“Trong bối cảnh ngày càng nhiều người sử dụng một ngôn ngữ thứ hai trong công việc và đời sống hằng ngày, khám phá của chúng tôi có những ý nghĩa lâu dài”, nhóm nghiên cứu viết. Họ cho rằng những người biết tiếng nước ngoài nên sử dụng chúng khi cân nhắc các quyết định về tài chính. “Về lâu dài, điều này rất có thể sẽ hữu ích”.

Kinh tế tri thức ở Việt Nam?

Trong một khuôn khổ hạn chế, bài viết thiên về dùng thí dụ minh họa và giản lược tối đa các lý luận về một số điều của kinh tế tri thức, cụ thể về hai câu hỏi: Kinh tế tri thức là gì? Việt Nam có cần kinh tế tri thức không và nếu có sẽ gặp những thách thức nào?
 

Kinh tế tri thức là gì?

Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong những năm qua kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít khác nhau[2]. Bài viết này bắt đầu bằng việc trao đổi một cách hiểu người viết cho là gần với bản chất của kinh tế tri thức.

Trước hết là khái niệm kinh tế. Theo một nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của một cộng đồng hay một quốc gia. Các hoạt động kinh tế thường được chia ra và đánh giá theo ba ngành kinh tế cơ bản: (a) Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản; (b) Công nghiệp; và (c) Thương mại, ngân hàng, dịch vụ, du lịch... Một hệ thống kinh tế là một tập hợp các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối các hoạt động kinh tế. Các hệ thống kinh tế thường được nói đến gồm kinh tế truyền thống, kinh tế kế hoạch, kinh tế thị trường, và kinh tế hỗn hợp. Đây là các mô hình một mặt được dùng để mô tả các nền kinh tế đã và đang tồn tại, mặt khác được chọn dùng để dẫn dắt, điều hành các nền kinh tế. Ta sẽ bàn về kinh tế tri thức theo nghĩa hệ thống kinh tế, và câu hỏi sẽ là kinh tế tri thức là gì và khác với các hệ thống kinh tế khác thế nào?

Chúng ta đều biết trong kinh tế kế hoạch, các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối chủ đạo là kế hoạch, do Chính phủ chỉ đạo và quản lý những gì sẽ được sản xuất, sản xuất bao nhiêu và cho ai, với sự nhấn mạnh đến yếu tố hướng tới phúc lợi xã hội. Trong kinh tế thị trường các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối chính là thị trường, ở đó các doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích hoạt động với mục tiêu thu lợi nhuận, các nguồn lực được phân bổ theo cơ chế giá cả định đoạt bởi cung và cầu, với vai trò hạn chế của Nhà nước. Khác với hai mô hình kinh tế kể trên, trong kinh tế tri thức các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chủ yếu chi phối các hoạt động kinh tế là tri thức con người. Các tên gọi khác như kinh tế dựa trên tri thức (knowledge-based economy) hay kinh tế được điều hành bởi tri thức (knowledge-driven economy) cho ta một cách hiểu trực giác hơn với sự nhấn mạnh về vai trò nền tảng và ảnh hưởng của tri thức trong kinh tế.


Cách tân, đổi mới đã giúp kinh tế Nhật Bản có những bước tiến vượt bậc

Cần nói thêm rằng các nền kinh tế thường không thuần túy theo riêng một mô hình. Hầu hết nền kinh tế của các nước phát triển hiện đang theo mô hình kinh tế thị trường, nhưng đã có nhiều tính chất của kinh tế tri thức và đang hướng dần đến mô hình kinh tế này theo những cách ít nhiều khác nhau.

Cho đến đây ta vẫn nói về tri thức nhưng chưa đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm trừu tượng này, vốn vẫn được bàn cãi xưa nay. Tuy nhiên, trong một chừng mực chấp nhận được, ta thừa nhận cách hiểu theo nghĩa cơ bản nhất của tri thức, tức những hiểu biết con người có được qua nhận thức, học tập, và quan sát. Trong bài này ta sẽ nói một cách đơn giản tri thức là hiểu biết, và dùng thay đổi hai từ này. Với đa số người Việt, “hiểu biết” dường như gợi hơn, thấm hơn từ Hán-Việt “tri thức”.

Sẽ có một câu hỏi tự nhiên rằng sự khác nhau ở đâu khi mọi hoạt động trong các hệ thống kinh tế đương nhiên đều dựa trên hiểu biết. Nói khác đi, việc nhấn mạnh lên vai trò của hiểu biết sẽ tạo ra sự khác biệt và đặc điểm gì trong hệ thống kinh tế mới này ở tất cả các ngành kinh tế, chẳng hạn so với các hệ kinh tế kế hoạch hay kinh tế thị trường? Câu trả lời chính là ở mức độ khác nhau của sự sáng tạo và sử dụng tri thức. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm trong đó hai đặc điểm sau là tiêu biểu hơn cả: 

Có một tỷ lệ cao các hoạt động kinh tế dựa trên hiểu biết và thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, như khoa học về sự sống, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ nano, ...

Mọi hoạt động trong các ngành kinh tế đều dựa nhiều hơn và hiệu quả hơn vào việc dùng tri thức trong một môi trường toàn cầu hóa, và kinh tế được phát triển hài hòa với sự phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.


Quản trị trí thức là quá trình sáng tạo, thu nạp và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức. Trong ảnh là bìa một cuốn sách về quản trị trí thức.

Có thể xem (a) là đặc điểm công nghệ và (b) là đặc điểm xã hội của kinh tế tri thức. Chúng tương hỗ bổ sung cho nhau để đặc trưng kinh tế tri thức, thậm chí (b) có vai trò bản chất hơn, chỉ ra nền kinh tế tri thức không đồng nhất với nền kinh tế của các công nghệ cao. Hai đặc điểm này có thể nhiều ít khác nhau trong các nền kinh tế tri thức của các quốc gia.

Theo nghĩa này, sản xuất nông nghiệp có thể có mặt trong kinh tế tri thức nếu người nông dân không chỉ dựa vào kinh nghiệm cha truyền con nối mà còn biết tìm và dùng được các hiểu biết của người khác, hoặc tìm ra cách mới sao cho việc trồng lúa nuôi lợn của mình tốt hơn, hoặc biết được nhu cầu xã hội, giao dịch và bán sản phẩm của mình qua Internet để có lợi hơn. Ngành du lịch có thể có mặt trong nền kinh tế tri thức nếu biết được tâm lý và nhu cầu của những nhóm du khách khác nhau, biết cung cấp các dịch vụ hấp dẫn, biết thu lãi trước mắt vừa đủ để giữ và thu hút khách lâu dài. Một quốc gia chỉ làm nông nghiệp và du lịch vẫn có thể xây dựng được nền kinh tế tri thức. Và thật ra cách hiểu này với sự nhấn mạnh yếu tố (b) mới mở đường để nhiều nước đang phát triển có thể định ra và hướng đến một nền kinh tế tri thức của riêng mình, khi hiện tại chưa có những ưu thế cạnh tranh về công nghệ cao.

Những ý niệm về kinh tế tri thức kể trên phù hợp với các định nghĩa được đề xuất và hiệu chỉnh dần trong những năm qua của một số tổ chức quốc tế:

“Là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng.” (Ngân hàng Thế giới, World Bank). [11]

“Là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc tạo ra, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.” (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, OECD). [6]

“Là nền kinh tế trong đó việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.” (Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, APEC). [1]

Ta lấy một vài thí dụ để phân tích các định nghĩa này, như định nghĩa của Ngân hàng Thế giới. Chẳng hạn việc khai thác và bán một số tài nguyên thiên nhiên ở dạng thô là những hoạt động kinh tế không chứa hàm lượng tri thức cao. Một nền kinh tế tri thức sẽ hướng đến việc làm sao để biết cách chế biến các tài nguyên thô thành các sản phẩm có giá trị cao hơn trước khi bán ra, đến việc có các thông tin toàn cầu về những quốc gia nào cần bán và mua các tài nguyên này để có quyết sách hợp lý nhất. Nếu có hiểu biết và không chỉ nhằm thị trường trước mắt, rất có thể việc hoãn vài chục năm không khai thác và bán ngay một số tài nguyên sẽ có lợi hơn trong toàn cục. Đây là việc “sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội”. Chẳng hạn lúc này ta đang phải quyết định một chuyện rất hệ trọng về xây dựng các nhà máy điện hạt nhân[10]. Rõ ràng ta cần tìm hiểu để biết mọi nhẽ của kiến thức loài người về điện hạt nhân, việc xây dựng và vận hành chúng, những bài học thành bại của các quốc gia. Đây là việc “thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu”. Chẳng hạn khi ta phát hiện ra và muốn khai thác mỏ than nâu dưới lòng đồng bằng sông Hồng, ta cần phải biết rất rõ về trữ lượng, biết công nghệ, biết tác động của nước ngầm đến sụt lún, biết những rủi ro có thể xảy ra. Đây là việc “thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng”.

Ngoài hai đặc điểm tiêu biểu về bản chất của kinh tế tri thức đã nêu trên, có thể kể đến một số tính chất tạo ra sự khác biệt giữa kinh tế tri thức và các hệ kinh tế khác. Một là tính chất toàn cầu của kinh tế tri thức. Không nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có thể nằm ngoài mạng lưới kinh tế toàn cầu, và đương nhiên hiểu biết về các quốc gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý của mình là điều hiển nhiên rất quan trọng. Trong cái bối cảnh toàn cầu đầy cạnh tranh này, sự “khôn sống mống chết” càng rõ, mà cái sự khôn ấy bắt đầu từ việc có hiểu biết về các nước khác trước khi đưa ra được những quyết định khôn ngoan. Hai là tính chất động theo cơ hội của nền kinh tế tri thức. Ta đang phải phát triển trong một thế giới đầy biến động, nơi điều duy nhất chắc chắn là sự không chắc chắn của chính thế giới này [4]. Trong những biến động ấy, hiểu biết về các cơ hội và rủi ro để có thể đối mặt với chúng là rất cần. Môi trường càng biến động, quốc gia nào có hiểu biết để nắm được cơ hội sẽ càng phát triển được nhanh. Ba là tính chất con người có tri thức là nguồn lực chính của kinh tế tri thức. Bổ sung vào lý thuyết kinh tế tân-cổ điển xem hai nguồn lực chính của kinh tế là vốn tài chính và sức lao động, kinh tế tri thức nhấn mạnh thêm về con người có tri thức. Nguồn lực con người có tri thức cao sẽ được nói ở phần sau về giáo dục và đào tạo trong kinh tế tri thức. 

Việt Nam có cần kinh tế tri thức không và nếu có sẽ gặp những thách thức nào?

Để trả lời câu hỏi này hãy xem kinh tế ta đang ở đâu và cách nào để có thể tiến lên. Lấy một thí dụ để so sánh hai nền kinh tế Việt Nam và Nhật Bản, một là nền kinh tế thị trường phát triển nhưng đang hướng đến và đã mang nhiều tính chất của kinh tế tri thức, và một là nền kinh tế hỗn hợp còn mang ít tính chất của kinh tế tri thức. Sự nhiều ít này được nhìn nhận theo mức độ ảnh hưởng và chi phối của tri thức trong các hoạt động kinh tế.
 
Việt Nam (2007)
Nhật Bản (2007)
Ngành kinh tế
Đóng góp cho GDP
Ngành kinh tế
Đóng góp cho GDP
Nông, lâm nghiệp, thủy hải sản
20,34%
Nông, lâm nghiệp, thủy hải sản
0.9%
Công nghiệp                                (chế biến, khai mỏ)
41,48%        (31,03%)
Công nghiệp                                (chế tạo)
28,9%        (21,0%)
Thương mại, dịch vụ, du lịch, ...
(tài chính, tín dụng)
38,18%
(1,80%)
Thương mại, dịch vụ, du lịch, ...
(dịch vụ)
70,8%        (30,9%)
Bảng 1. So sánh đóng góp vào GDP của Việt Nam và Nhật Bản theo
các ngành kinh tế  (phần trong dấu ngoặc là nội dung và số liệu của một vài lĩnh vực).

Bảng 1 tóm tắt các số liệu tổng hợp về đóng góp cho tổng thu nhập quốc dân năm 2007 theo ba ngành kinh tế của Việt Nam[8] và Nhật Bản[7]. Các số liệu tổng hợp này cho thấy ngành nông lâm ngư nghiệp của Việt Nam góp một phần lớn của GDP (20,34%) trong khi ngành này của Nhật chỉ góp chưa đầy 1%. Ngành công nghiệp của Việt Nam đóng góp 41,48% của GDP, trong đó khai mỏ (dầu khí, than... chưa có phần bô-xít) và công nghiệp chế biến (may mặc quần áo, giày dép xuất khẩu...) góp đến 31,03%, tức gần một phần ba của GDP. Ngành công nghiệp của Nhật Bản chỉ góp gần một phần ba của GDP (28,9%), trong đó phần của công nghiệp chế tạo là 21%. Điều này có thể làm nhiều người ngạc nhiên khi vẫn thường nghĩ rằng GDP của Nhật phần lớn do làm ra và bán được nhiều ô tô Toyota, xe máy Honda, máy ảnh Canon, máy tính Fujitsu... Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch... của Việt Nam đóng góp 38,18% của GDP, trong khi ngành này của Nhật Bản góp 70,8%, tức khoảng hai phần ba GDP. Đáng chú ý là ngành tài chính và tín dụng của ta chỉ khiêm tốn góp 1,8%, còn các ngành dịch vụ của Nhật góp 30,9% của GDP, tức gần một phần ba.

Từ đây có thể thấy rõ hơn là GDP của ta phần lớn thu được từ các ngành sản xuất đơn giản ít đòi hỏi hàm lượng tri thức cao, như công nghiệp chế biến hay khai thác tài nguyên thiên nhiên. Ngược lại, GDP của Nhật Bản phần lớn có được do các hoạt động kinh tế không liên quan đến việc làm ra hàng hóa, họ gọi là “công nghiệp tri thức”, hoặc các ngành chế tạo dựa trên công nghệ cao.

Để có thêm một định ý cho câu trả lời liệu Việt Nam có cần kinh tế tri thức không, hãy xét thêm một thí dụ về mối quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu.  

Hình 1. Dịch chuyển cấu trúc kinh tế ở Đông Á

Hình 1 là một bức tranh về dịch chuyển cấu trúc kinh tế ở đông Á[5], trong đó trục hoành chỉ sự thay đổi theo thời gian (tương đối) và trục tung chỉ nhóm các nước ở đông Á có sự phát triển kinh tế chi phối bởi yếu tố tri thức và trình độ sản xuất ở các mức khác nhau. Nhóm các nước mới công nghiệp hóa (NIEs) gồm Hàn Quốc, Hong Kong, Đài Loan và Singapore; nhóm Đông Nam Á 4 gồm Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Việt Nam nằm trong những nước sau cùng.

Xu thế chung của sự dịch chuyển này là mỗi khi các nước ở nhóm đi trước nâng trình độ sản xuất và dòng sản phẩm tiêu biểu lên một mức, dòng sản phẩm tiêu biểu cũ sẽ được chuyển dịch tới các nước đi ngay sau. Vì nằm ở nhóm sau cùng trong mối quan hệ này, Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp chế biến và gia công, với ít hàm lượng tri thức. Và nếu không có cách thay đổi cái lược đồ dịch chuyển này, ta sẽ chỉ luôn làm được việc người khác không làm nữa khi họ chuyển qua các việc có lợi nhuận kinh tế cao hơn do có nhiều hiểu biết hơn. Không vui nhưng nếu thừa nhận rằng nhận định nêu trong Hình 1 có nhiều phần đúng, có thể thấy các nước phát triển đang dần đi trước đến nền kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này dễ làm cho các nước đi sau trong đó có ta sẽ luôn đi sau với tiềm ẩn nguy cơ ngày càng tụt hậu. Có thể nói một cách tổng quát rằng sự khác biệt giữa các quốc gia đã và sẽ chính là sự khác biệt về hiểu biết, và thách thức lớn nhất của chúng ta chính là thách thức để vượt qua sự khác biệt này.


Hình 2. Tứ trụ của nền kinh tế tri thức

Có nhiều lý do cho thấy việc có và dùng hiệu quả tri thức trong các hoạt động kinh tế và xã hội là con đường chúng ta cần đi. Vì nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể là vô hạn để có thể khai thác và bán mãi, vì phát triển không thể bền vững nếu dựa quá nhiều vào nhập khẩu công nghệ và sản phẩm của thiên hạ, vì không thể vượt ra khỏi nhóm đi sau hay đi cuối nếu ta không tìm được cách để làm những việc khác ngoài gia công và chế biến, hay đào mỏ, chặt rừng, bắt cá.

Tất nhiên làm sao để xây dựng nền kinh tế tri thức là câu hỏi của cả đất nước. Nhưng nếu muốn làm kinh tế tri thức, cần xem đâu là những thách thức của ta, chẳng hạn những gì là nền tảng của một nền kinh tế tri thức và ta đã có bao nhiêu?           

Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn trụ cột sau[10]:

Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức: Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ đầu tư cho công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.

Giáo dục và đào tạo: Có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.


Hệ thống cách tân: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.

Hạ tầng cơ sở thông tin: Một hạ tầng cơ sở thông tin động, từ radio đến Internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin.

Mặc dù còn những tranh luận, giả sử ta thừa nhận bốn trụ cột này để xem ta sẽ gặp những thách thức nào khi phải xây dựng chúng.

Tạo ra được một môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức trước hết là việc của chính quyền và bộ máy lập pháp. Một thách thức là làm sao để nâng cao được dân trí toàn xã hội. Khi dân trí được nâng cao, người dân sẽ có thêm động lực và khả năng tìm kiếm dòng chảy tri thức, hoạt động sáng tạo cũng như tăng xu hướng làm chủ doanh nghiệp. Vì những cán bộ của bộ máy chính quyền và địa phương là những công dân có ảnh hưởng nhiều hơn đến môi trường kinh tế và thể chế xã hội, việc nâng cao được quan trí, như dân gian thường nói, là một điều hệ trọng. Những yếu kém về tri thức của một số quan chức mà người dân đôi khi được biết như chuyện “ngực lép xe máy”, chuyện “100% tiến sĩ”,... cho thấy đây là một thách thức lớn khi ta muốn đến nền kinh tế tri thức.

Giáo dục và đào tạo là chuyện sống còn của đất nước. Đương nhiên nếu giáo dục không làm được sứ mạng đào tạo được những người có tinh thần và khả năng sáng tạo, sẽ không có cách nào tiến đến kinh tế tri thức. Nói riêng về đào tạo người lao động có tri thức trong công nghiệp, nhìn theo năm nhóm ngành [9], A: Hàm lượng lao động cao và làm việc giản đơn như may mặc, giày dép...; B: Hàm lượng lao động cao và sử dụng nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp như chế biến thực phẩm; C: Hàm lượng tư bản cao và sử dụng tài nguyên khoáng sản như thép, hóa dầu...; D: Hàm lượng lao động cao và lành nghề, làm các sản phẩm như đồ điện gia dụng, xe máy, bơm nước, linh kiện điện tử...; E: Hàm lượng công nghệ cao và làm máy tính, công nghệ thông tin và truyền thông, xe hơi, đồ điện tử cao cấp... Ở Đông Á, Trung Quốc tập trung vào A và lắp ráp trong D; Thái Lan và các nước Đông Nam Á 4 có lợi thế trong B và D; Nhật Bản và các nước NIEs giữ lợi thế ở D và đang tăng phần sản xuất bên ngoài nên Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á đang dịch chuyển về D. Việt Nam đang chủ yếu làm A và B. Rõ ràng muốn chuyển dịch qua các nhóm ngành khác như C, D, và E, chúng ta phải đối mặt với bài toán đào tạo người lao động có tri thức cao hơn, làm được những việc ở các nhóm ngành này.

Xây dựng được một hệ thống cách tân là một thách thức rất lớn, tức hệ thống các tổ chức đóng vai trò thu nhận và sáng tạo tri thức chủ yếu trong xã hội. Việc này liên quan tới những thách thức lâu nay của ta như chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu. Một khía cạnh ở đây là thách thức về tính cách tân của các tổ chức trong xã hội. Quản trị tri thức (knowledge management)- lý thuyết và thực tiễn về quá trình sáng tạo, thu nạp và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức- là một công cụ rất đáng quan tâm cho cuộc cách tân này. Có thể lấy thí dụ về quản trị tri thức của các công ty Nhật Bản, được mô hình hóa trong cuốn sách nổi tiếng của Nonaka và Takeuchi [4]. Sự vượt lên kỳ diệu của Nhật Bản từ hoang tàn đổ nát sau Đại chiến thế giới thứ hai là điều đáng tìm hiểu và học tập. Khi này các công ty Nhật Bản phải vươn lên trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Họ cần có công nghệ mới, thiết kế sản phẩm mới, quá trình sản xuất mới, cách tiếp cận thị trường mới. Các công ty Nhật đã thực hiện được hiệu quả quá trình sáng tạo những tri thức cần cho phát triển kinh tế. Mọi thành viên của các công ty được khuyến khích chia sẻ tri thức mình tích lũy được với đồng nghiệp, góp vào tài sản tri thức của công ty, cùng nhau hợp sức tạo ra tri thức công nghệ và sản phẩm mới của công ty. Cách họ làm dựa trên sự tương tác liên tục theo một dòng xoắn ốc không ngừng tăng giữa các khía cạnh của tri thức ẩn và tri thức tường minh của các cá thể, nhóm và tổ chức. Công thức của sự thành công của các công ty Nhật Bản là: Sáng tạo tri thức --> Liên tục cách tân --> Ưu thế cạnh tranh [4].

CNTT&TT là hạ tầng cơ sở để thực hiện hầu hết các hoạt động của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ cho ba trụ cột nêu ở trên về giáo dục và đào tạo, hệ thống cách tân, môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri thức. Thách thức trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở CNTT&TT là chuyện thời sự của ta hiện nay khi Nhà nước đang đặt mục tiêu tăng tốc để trở thành một nước mạnh về CNTT&TT.

Đang và sẽ sớm có nhiều bàn luận về thách thức này, nên ta không phân tích gì ở đây, chỉ nêu hai thí dụ cho thấy CNTT&TT có thể ảnh hưởng ra sao trong nền kinh tế tri thức, đồng thời cũng cho thấy những thách thức trong việc đưa CNTT&TT vào hỗ trợ những hoạt động kinh tế như vậy. Thí dụ thứ nhất lại về ngành du lịch. Không phải mọi người liên quan đến làm du lịch của ta đều biết rằng ngày nay các du khách nước ngoài sau mỗi chuyến đi thường viết những nhận xét để trên Web cho mọi người tham khảo, và mỗi người trước khi quyết định đi đâu ở đâu đều tìm xem nhận xét của người khác. Những chuyện tưởng nhỏ như cái hay điều dở tại một thắng cảnh, tại một khách sạn xa xôi ở Việt Nam đều được lên mạng. Những chuyện như đi suốt buổi không tìm ra nhà vệ sinh, như giá cao phục vụ dở, hơn 70% du khách được hỏi đã nói không muốn quay lại Việt Nam,... dễ dàng được biết qua Internet, và có thể làm một lượng lớn du khách thay vì chọn Việt Nam, sẽ chọn Thái Lan, nơi ngành du lịch thường nhận được những đánh giá tốt trên mạng. Thí dụ thứ hai là về CNTT&TT hỗ trợ con người vượt qua rào cản ngôn ngữ để tăng hiểu biết. Tri thức loài người được diễn đạt theo các ngôn ngữ khác nhau. May thay những chương trình dịch tự động tiếng nói và chữ viết, tuy chất lượng chưa thật cao nhưng đang được cải thiện rất nhanh do tiến bộ của CNTT, đã cho phép con người ở một mực độ chấp nhận được trong rất nhiều công việc, đọc được các tài liệu hay các trang Web viết trong ngôn ngữ khác, nghe hiểu được tiếng nói trong ngôn ngữ khác. Có được những hỗ trợ này để người Việt hiểu được tiếng nói và chữ viết trong nhiều ngôn ngữ khác cũng là một thách thức của CNTT&TT trong nền kinh tế tri thức.

Lời kết

Kinh tế tri thức là con đường ta cần đi và đi càng sớm càng tốt. Có những nghiên cứu chỉ ra kinh tế tri thức đã xuất hiện ở Việt Nam qua sự phát triển CNTT&TT[3]. Theo đuổi khoa học hiện đại và công nghệ cao là một cách ta cần làm trong kinh tế tri thức, nhưng không phải duy nhất. Để một đất nước còn hạn chế về khoa học và công nghệ như ta có được sản phẩm công nghệ cao cạnh tranh với thiên hạ là vô cùng gian truân. Nếu không biết và đặt mục tiêu không thích hợp, ta dễ rơi vào tình huống “người đi chân đất muốn đóng giày bán cho thiên hạ”.

Cần nghĩ về tính đa dạng của kinh tế tri thức khi ta hướng tới nền kinh tế này. Thí dụ sau đây giả định về một hoạt động trong một nền kinh tế tri thức và có thể gợi những suy nghĩ. Theo các số liệu dễ dàng tìm thấy trên mạng, vào năm 2010 ước tính nước Nhật có khoảng 5,2 triệu người ở tuổi trên 80, và năm 2020 khoảng 9,9 triệu. Giả sử 30% số người này cần được chăm sóc ở các nhà dưỡng lão, tức khoảng triệu rưỡi và ba triệu người vào các năm trên. Giả sử một người trẻ chăm sóc được mười người già, thì số người trẻ cần cho việc này là 150 nghìn và 300 nghìn. Nếu biết thêm rằng số người trẻ ở Nhật đang giảm, và hầu hết không muốn làm việc chăm sóc người già, và nếu biết có nghiên cứu đã chỉ ra những tính cách giống nhau giữa người dân hai nước, ta có thể nghĩ đến một dịch vụ kinh tế hiệu quả. Lẽ nào những hoạt động như vậy lại không đáng quan tâm trong một nền kinh tế dựa trên tri thức?
* Trường Khoa học Tri thức, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản
Tài liệu tham khảo chính
1 Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), “Towards knowledge-based economies in APEC”, APEC Economic Committee Report, 11.2000.
2 Đặng Hữu, Kinh tế tri thức: Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005.
3 Đặng Thị Việt Đức, The emergence of knowledge economy through ICT in developing countries: The case of Vietnam, Luận án Tiến sĩ, JAIST, 11.2009.
4 Nonaka, I. and Takeuchi, H., The knowledge-creating company, Oxford University Press, 2005.
5 Ohno, K., “The East Asian growth regime and political development”, Vietnamese Students Symposium on Economy and Technology, Tokyo, October 2007.
6 Organization for Economy Cooperation and Development (OECD), “The new economy: Beyond the hype”, Final report on the OECD Growth Project, 2001.
7 Tổng cục Thống kê và Kế hoạch hóa Nhật Bản, http://www.stat.go.jp/data/nihon/03.htm 
8 Tổng cục Thống kê Việt Nam, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=388&idmid=3&ItemID=8664
9 Trần Văn Thọ, Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa của Việt Nam, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005.
10 Tuần Việt Nam, “Điện hạt nhân: Không phải việc riêng của ngành điện”, http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-dien-hat-nhan-khong-phai-viec-cua-rieng-nganh-dien
11 World Bank, “Knowledge for development”, World Development Report, 1999.

Cần phân định rõ thế nào là đề tài khoa học


Hoàng Tụy
Tôi cho rằng, việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là cần phân định rõ thế nào là nghiên cứu khoa học và thế nào là nghiên cứu nghiệp vụ của bản thân từng cơ quan. Ví như, cái bàn và cái ghế đều quan trọng, chúng ta đều cần cả. Nhưng đáng lẽ cái gọi là cái bàn thì chúng ta lại gọi là cái ghế, rồi chúng ta lại than phiền không có chỗ mà viết dù có đủ sách vở, bút giấy. Tình trạng của chúng ta cũng giống như vậy.
Tôi đã tham gia nhiều hội nghị về các đề tài khoa học cấp Nhà nước của một số ngành. Theo tôi, những cái gọi là đề tài khoa học ấy thực ra thuộc về chức trách, nhiệm vụ của họ. Chẳng hạn, làm giáo dục thế nào cho tốt thì đấy là công việc mà cơ quan lãnh đạo giáo dục cần phải nghiên cứu. Nhưng rồi, việc đó của họ lại thành một đề tài khoa học cấp Nhà nước, được cấp kinh phí, theo tôi dự đoán là khoảng gấp mười, gấp trăm các đề tài nghiên cứu khoa học tự nhiên. Nhiều cơ quan khác cũng có tình trạng đó. Họ đã được Nhà nước cấp cho bao nhiêu phương tiện để làm nhiệm vụ của mình, nhưng rồi họ lại “biến” nhiệm vụ đó thành không biết bao nhiêu đề tài nghiên cứu (vì chúng ta quản lý không minh bạch nên khó mà biết được số lượng thế nào). Chẳng hạn như việc nghiên cứu, giảng dạy và viết sách giáo khoa là việc hết sức quan trọng cho giáo dục. Việc đó cần được Bộ Giáo dục khuyến khích và có kinh phí khuyến khích. Nhưng việc đó là thuộc Bộ Giáo dục. Về phương diện khoa học, không thể coi sách giáo khoa là một công trình khoa học được. Trừ khi trong sách giáo khoa đó có nhiều điểm mới về khoa học thực sự có thể coi là công trình khoa học.
Tôi rất thấy làm lạ khi có nhà báo đưa cho tôi một tập các đề tài khoa học của thành phố Hà Nội, trong đó, nhiều đề tài đọc đầu đề lên đã thấy không đâu trên thế giới này coi là đề tài khoa học. Đấy là ở cấp thành phố. Ở cấp Bộ, tôi chắc cũng có nhiều trường hợp như thế. Tôi dự tính đến 70-80% kinh phí khoa học là để cấp cho các “đề tài” kiểu đó. Còn lại khoảng 20-30% cấp cho đề tài khoa học công nghệ. Bản thân tôi rất coi trọng tất cả các công trình nghiên cứu nghiêm túc ở tất cả các ngành. Tôi không gộp những cái đó vào đây, nhưng quả thật có nhiều công trình không có một giá trị gì cả. Đã vậy lại nhận kinh phí gấp trăm gấp ngàn lần các đề tài khác.
Liên quan đến vấn đề này là việc đánh giá và xem xét hiệu quả các công trình khoa học. Hiện nay xã hội chúng ta có nhiều cách đánh giá khoa học mà tôi cho là quá ấu trĩ. Có người nói, bao nhiêu công trình nghiên cứu khoa học công bố báo này, báo kia trên quốc tế nhưng có tác dụng gì trong nước đâu, cũng chẳng làm ra cơm áo gì. Đó là những quan niệm hết sức sai lầm. Tất cả các nước trên thế giới, đến 90% các công trình nghiên cứu cũng không ra cơm ra áo ngay được. Khoa học là cả một hệ thống. Sở dĩ bây giờ có nhiều thành tựu khoa học kỳ diệu, như là về sinh học, giải mã bản đồ gene người, phóng vệ tinh, thám hiểm cái này cái nọ, máy tính…, đó không phải chỉ do công lao của những người làm trong lĩnh vực ấy. Có một nhà toán học suốt đời không quan tâm và cũng chẳng hiểu gì về máy tính. Ông chỉ chuyên nghiên cứu về lý thuyết đồ thị Graph. Nhưng khi ông mất đi, chính các nhà công nghệ thông tin đã nói rằng, ông là một trong những người đã giúp ích nhiều nhất cho sự phát triển của công nghệ thông tin.
Vì vậy, cần có sự phân biệt giữa Khoa học cơ bản và Khoa học ứng dụng. Trong toán học cũng đã từng có sự phân biệt đó, nhưng rồi người ta nhận thấy: không có cách nào phân chia rạch ròi toán ứng dụng và toán lý thuyết. Chỉ có hai loại: toán tốt và toán tồi. Tôi cho rằng điều đó đúng với khoa học nói chung. Tại sao lại đòi hỏi những nghiên cứu khoa học phải tiến hành làm ra ngô ra khoai ra lúa ra gạo ngay. Nếu như thế thì không chỉ có ta không làm được mà trên thế giới không có nước nào làm được điều đó. Đó là đòi hỏi những cái không thể, vì như vậy là tách từng cái một ra khỏi hệ thống. Tuy không trực tiếp làm ra lúa ra gạo, nhưng trên thế giới này, nếu không có 90% những công trình không có tác dụng ấy thì cũng không thể có 10% các công trình ứng dụng kia.
Gần đây, tôi thấy có những bước tiến lớn đáng vui mừng trong quản lý nghiên cứu cơ bản của Bộ KH&CN, dù rằng, chúng ta cần phải cải tiến nhiều nữa, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai. Thay vì nói chuyện chiến lược, hãy nói chuyện soạn thảo và thực hiện nghiêm túc các chính sách cụ thể. 
Ngoài ra, còn có một vấn đề lớn về môi trường và điều kiện làm việc của nhà khoa học. Đây là vấn đề không phải chỉ riêng của Bộ KH&CN mà là của cả xã hội, mà theo tôi, nguyên nhân chủ yếu là do chính sách tiền lương và tham nhũng gây nên. Như trong ngành giáo dục, tính ra số tiền Nhà nước và các địa phương đầu tư cho giáo dục cũng như nhân danh đầu tư cho giáo dục, nếu quản lý tốt và không có tham nhũng thì có thể nói là thừa để đảm bảo mức sống hợp lý cho giáo viên cũng như cán bộ giảng dạy ở đại học, để cho họ có thể sống bằng đồng lương và tập trung làm công việc của họ thay vì phải làm tay trái, thậm chí phải làm nhiều việc phi đạo đức (nhiều người làm như vậy mà bản thân họ cũng rất đau lòng).
Muốn nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học thì một điều không thể không làm là cần chấm dứt tình trạng lấy một phần không nhỏ kinh phí nghiên cứu khoa học để bù đắp thêm cho tiền lương. Nhưng muốn làm được điều đó thì trước hết lương phải thỏa đáng, phải căn cứ vào trình độ, kinh nghiệm của nhà khoa học, và như vậy phải đánh giá đúng trình độ nhà khoa học ấy. Ở tất cả các nước văn minh mà tôi đã có dịp đến, tôi đều thấy các giáo sư, các nhà khoa học sống trên mức trung bình. Họ không phải làm những việc khác ngoài nghiên cứu. Còn kinh phí khoa học của họ phần lớn để đi trao đổi, nhận nghiên cứu sinh, làm thêm thí nghiệm… chứ không phải để bổ sung vào tiền lương.
Chính sách tiền lương hiện nay của chúng ta là một nguyên nhân chủ yếu đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực. Và một hậu quả khác là, vì cơ chế đó cho nên nhiều nghiên cứu không phải là khoa học cũng xưng là khoa học và nhận kinh phí. Đặc biệt là những đề tài động đến những chuyện to tát như đường lối của Nhà nước, chính trị, xã hội… rất dễ được cấp tiền “nghiên cứu”.
---------------
Lược ghi phát biểu tham luận tại Hội thảo: Định hướng và Giải pháp phát triển KH&CNViệt Nam 2010 – 2020

Xã hội sáng tạo



Người Phần Lan sống nhàn nhã và gần với thiên nhiên.
Trong ảnh: Ông Olli Leskinen –chuyên gia kinh tế
đã có hơn 10 năm. tham gia các dự án tại VN – lái
con thuyền tự đóng.tại nhà nghỉ mát mùa hè của ông.
Trong khoảng 15 năm nay tiếp xúc, đi lại, làm việc, học tập tại Phần Lan, tôi thấy rất rõ là mọi công dân trong xã hội, từ nhà kinh doanh, nghệ sỹ, sinh viên, đặc biệt là giới trẻ, họ rất chủ động và tự tin và tham gia các hoạt động sáng tạo ở khắp mọi nơi.
Vào năm 2008, nhân kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Phần Lan, Tổng thống Phần Lan (lúc đó là Tarja Halonen) lần đầu tiên có chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam kèm theo một đoàn doanh nghiệp lớn của đất nước mình. Bà Halonen đã có bài phát biểu tại diễn đàn kinh doanh Việt Nam – Phần Lan. Trong bài phát biểu rất ngắn này tôi đặc biệt lưu ý tới một số điểm sau:

Thứ nhất, bà không giới thiệu nhiều về văn hóa dân tộc (bản sắc dân tộc) hay thiên nhiên tươi đẹp như kiểu của Việt Nam chúng ta vẫn hay làm (bởi vì cái này trong các tài liệu giới thiệu đất nước con người của Phần Lan đều đã đầy đủ), mà mở đầu bà nói ngay về Phần Lan gắn với những thương hiệu đứng đầu thế giới như NOKIA, POLAR… đã phát triển trong thời gian rất ngắn, với những slogan đậm chất nhân văn, ngắn gọn và giản dị: “Connecting people”, “Listens to your body”.

Thứ hai, bà nói Phần Lan là một nước nhỏ, nguồn lực giới hạn nên không thể đầu tư phát triển tất cả các ngành (hiểu theo mình bây giờ là “dàn trải”) mà chỉ tập trung vào một số ngành, nhưng (bà nhấn mạnh) ngành nào Phần Lan đã quyết phát triển thì đều phải đứng đầu thế giới! Thí dụ điển hình như vừa kể là NOKIA, rồi ngành gỗ giấy có tập đoàn UPM-Kymenen lớn nhất thế giới, hãng VAISALA đứng đầu thế giới về thiết bị khí tượng thủy văn, POLAR nổi tiếng nhất thế giới về đồng hồ thể thao và hoạt động ngoài trời, KEMIRA là tập đoàn cung cấp hóa chất xử lý nước lớn nhất thế giới, CARGOTEC - một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới về thiết bị cảng biển, tập đoàn Instrumentarium nổi danh toàn cầu về thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe…
  

Thứ ba, bà Halonen nói, ngày nay tốc độ đưa một kết quả nghiên cứu thành sản phẩm có mặt trên thị trường có khi tính bằng phút, bằng giây nên nếu chúng tôi không nhanh thì sẽ không thể cạnh tranh. Muốn làm được điều này, chúng tôi phải động viên toàn bộ nguồn lực xã hội, con người để làm sao nhanh chóng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu bằng triển khai các mô hình platform như trung tâm sáng tạo, trung tâm chuyên môn, vườn ươm công nghệ, hi-tech park…

Qua bài phát biểu của bà Halonen, ta nhận thức được không chỉ về chiến lược mà còn là những triết lý và chìa khóa phát triển của Phần Lan. Đó là (1) Xã hội sáng tạo/hay Văn hóa sáng tạo Creative /Innovation Society  (2) Synergy cooperation hay mô hình xoắn kép Triple helix; (3) Tư duy Platform.

Kiểu người “T”

Như bà Tổng thống mở đầu bài phát biểu đã nói về vấn đề cốt lõi nhất trong phát triển của Phần Lan, đó là con người có văn hóa sáng tạo. Do vậy mà họ đã tập trung phát triển con người sáng tạo trước khi xây dựng những trung tâm hay khu này khu kia như ở Việt Nam. Những con người sáng tạo chính là kiểu người mà các giáo sư ở trường AALTO chỉ ra: “T” Profile.

Tom Kelley là chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển môi trường sáng tạo cho các tổ chức, công ty hay cả quốc gia. Ông là tác giả cuốn sách nổi tiếng “The Ten Faces of Innovation”,  là Giám đốc điều hành của IDEO, một design firm hoạt động toàn cầu chuyên giúp các tổ chức sáng tạo. Chẳng hạn như họ đã tạo ra các dòng sản phẩm và dịch vụ sáng tạo cho các tập đoàn hàng đầu thế giới như Proter & Gamble, Samsung, Apple… Đồng thời chuyên xây dựng văn hóa sáng tạo cho các tổ chức.

Khái niệm “T” Profile cho cá nhân được Tom Kelley giới thiệu lần đầu tiên năm 2005 trong cuốn sách “The Ten Faces of Innovation”, mô tả những cá nhân kiểu “T” là những người đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa sáng tạo trong các tổ chức.

Theo Kelly, có ba kiểu người cơ bản:

Ngay cả trong các trò giải trí, khác với người Việt chúng ta chỉ mải hò hét bóng đá cá độ các kiểu, dân Phần Lan thích nhất là những môn đua tốc độ (racing) từ xe máy đến đua công thức 1. Họ muốn chiến thắng thế giới bằng công nghệ và tốc độ.
Kiểu người thứ nhất là kiểu “I”
, loại người này chẳng bao giờ tham gia làm việc nhóm, chỉ hợp làm việc một mình. Thuộc về kiểu người này chúng ta có thể thấy rất nhiều như các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các chuyên viên lập trình. Họ thường nghiên cứu rất sâu và rất giỏi trong lĩnh vực riêng biệt của mình nhưng ít khi có sự cảm thông, hiểu, chia sẻ và quan tâm tới người khác. Cũng có thể họ là những chuyên gia rất tinh thông về một loại sản phẩm, công nghệ hay thị trường nào đó nhưng họ ít có hiểu biết về những lĩnh vực khác, những mối quan tâm ngoài chuyện của họ.


Nói chung, khi những người này tham gia vào hoạt động sáng tạo, do thiếu hàng loạt kỹ năng, mối quan tâm và kinh nghiệm, họ sẽ rất khó khăn khi chuyển những kết quả sáng tạo ra thị trường và sáng tạo bền vững.

Kiểu người thứ hai là những cá nhân “dấu gạch ngang” (hyphen). Đây là kiểu người ngược hoàn toàn với kiểu “I”. Nhóm người này có tích lũy rộng những kiến thức, mối quan tâm, kỹ năng và kinh nghiệm trong rất nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, họ lại thiếu hụt những kiến thức sâu trong một lĩnh vực quan trọng nào đó hoặc lĩnh vực liên quan. Tức là những người thiếu chuyên môn thực. Như vậy những cá nhân kiểu “–” sẽ bị giới hạn về khả năng am hiểu sâu những công nghệ, ý tưởng hay mô hình quan trọng được xem là xương sống của các quá trình đổi mới (Innovation).

Từ đó nảy sinh ra kiểu người thứ ba, tức kiểu “T”. Người nhóm này có chuyên môn sâu về một lĩnh vực, kỹ năng, kiến thức hay công nghệ nào đó. Tuy nhiên, họ hay để tâm tích lũy những kỹ năng, kinh nghiệm hay các sở thích mà tự họ rút ra. Thí dụ, một chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng tái tạo có tích lũy thêm kinh nghiệm khi sống và làm việc ở môi trường nước ngoài, hiểu về văn hóa, ngôn ngữ của nước đó. Như vậy người này sẽ nhìn thấy những cơ hội phát triển năng lượng tái tạo đó ở trong những môi trường văn hóa đặc thù mà những người khác không nhìn thấy hoặc không hiểu. (Vào năm 2010 khi tôi đưa đoàn lãnh đạo Ủy ban dân tộc Việt Nam đến thăm công ty Năng lượng Mặt trời NAPS, một vị trong đoàn có hỏi rằng tại sao Phần Lan là nước có rất ít nắng (chỉ có 5 tháng mùa hè) sao các ông lại đi vào phát triển năng lượng Mặt trời? Ông Heikki Neuvonen là Phó Chủ tịch NAPS trả lời rằng: vì Phần Lan rất ít nắng nên chúng tôi rất quý trọng nguồn năng lượng này và cố gắng phát triển công nghệ chế tạo ưu việt nhất, để khi chúng tôi sử dụng tốt ở điều kiện ít nắng như Phần Lan thì chắc chắn chúng tôi sẽ có cơ hội kinh doanh ở những nước nhiều nắng như Việt Nam).

Các trường Đại học Phần Lan thường khuyến khích sinh viên học hỏi và trải nghiệm văn hóa đa chiều. Chính phủ cũng có chương trình tài trợ cho sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể thực tập hoặc tình nguyện tại một quốc gia nào đó. Điều này đã giúp cho sinh viên luôn luôn sáng tạo và năng động khi quay trở lại Phần Lan hoặc đi làm chuyên gia cho các nước mà họ từng đến.
Phần lớn những nhà kinh doanh và nhà sáng tạo nổi tiếng đều là những người kiểu “T”, họ có khả năng cross-pollinate các lĩnh vực kiến thức, sở thích và đam mê khác nhau với kinh nghiệm chuyên môn để hiểu và đáp ứng tốt hơn yêu cầu sáng tạo năng động, khuynh hướng trào lưu mới và nói chung là tăng cường sáng tạo.


Điều này rất rõ trong các công ty ở Phần Lan mà tôi thường tiếp xúc. Các giám đốc điều hành hay marketing… vừa có chuyên môn về lĩnh vực họ đang làm, vừa là những người có kiến thức văn hóa đa chiều, những mối quan tâm và niềm đam mê khác. Có một sự thực là ở Phần Lan và các quốc gia phát triển khác trong 50 năm trở lại đây đã tập trung nhiều vào con người hơn là đầu tư các trang thiết bị và phương tiện. Những quỹ đầu tư của nhà nước cho sáng tạo cũng chú trọng tới việc phát triển nhiều loại dịch vụ hỗ trợ phi tài chính cho các hoạt động kinh doanh (thông tin, phương pháp, tư vấn), hội nhập giáo dục với sự tăng trưởng của nguồn vốn tri thức. Đây là nguồn vốn sẽ tồn tại mãi với chúng ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào có thể xảy ra.

Có thể nói, văn hóa sáng tạo ở Phần Lan được xây dựng trên nền tảng tạo ra những kiểu người chữ “T”. Từ những nhà lãnh đạo đến các nhà kinh doanh, hoạch định chính sách hay sinh viên… ở đâu cũng có thể thấy những người kiểu “T” này nắm giữ các vị trí quan trọng.

Thực ra ở Việt Nam chúng ta cũng đã có những khái niệm tương tự như mối liên kết “3 nhà” hay “4 nhà” nhưng điều quan trọng là nếu thiếu những người kiểu “T” ở vị trí thực thi của việc kết nối các nhà đó thì sẽ không bao giờ đạt hiệu quả. Vậy vấn đề cốt yếu cho mọi chính sách vĩ mô, các mô hình hay công cụ phát triển (như vườn ươm công nghệ, vườn ươm kinh doanh, trung tâm sáng tạo... mà sắp tới sẽ trình bày tiếp) đều xuất phát từ con người và văn hóa.

(Còn tiếp)

Trả lời câu hỏi: Trí thức là gì?


Giáp Văn Dương
Hình mẫu và khái niệm về trí thức chỉ có thể xuất hiện khi xã hội với một cấu trúc chặt chẽ được hình thành, tức là khi con người rời bỏ đời sống hoang dã để tập hợp lại với nhau, hình thành nên những cộng đồng người, trong đó các cá nhân tương tác với nhau theo những qui định và nghi thức được cả cộng đồng thừa nhận, dù là thành văn hay ngầm định.
Trí thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị phổ quát của nhân loại và sử dụng chúng như những trung giới trong các quá trình vận động biện chứng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Với quan niệm đó, khái niệm trí thức chỉ có ý nghĩa khi xem xét dưới lăng kính xã hội, và người trí thức chỉ thực sự xuất lộ khi sử dụng các đặc trưng cơ bản của mình: tri thức chuyên môn, khả năng cảnh báo và định chuẩn, để thực hiện vai trò xã hội của chính mình.

“Trí thức là gì?” là vấn đề gây tranh cãi từ lâu. Cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục. Bằng chứng của điều này là hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức đang tồn tại song hành, như: trí thức là người lao động trí óc, trí thức là người có học, trí thức là người khám phá và truyền bá tri thức, trí thức là người tích cực tham gia phản biện xã hội, trí thức là người dẫn dắt xã hội, trí thức là lương tâm của xã hội, trí thức là người không để cho xã hội ngủ v.v…Thậm chí, triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre còn đưa ra một định nghĩa tuy bề ngoài có vẻ hài hước, nhưng rất khó bác bỏ: trí thức là người thích làm những việc chẳng phải của mình!

Chính vì vậy, việc tìm một định nghĩa đúng và khả dụng về trí thức, là một một điều cần thiết. Điều này cần bắt đầu từ việc lần lại thời điểm sớm nhất mà khái niệm trí thức có thể được hình thành.

Đặc phẩm của xã hội

Ngược dòng lịch sử, thấy rằng: khi con người còn ở giai đoạn săn bắt hái lượm thì chắc chắn khái niệm trí thức chưa xuất hiện. Lý do là trong hoàn cảnh đó, một khái niệm như vậy là hoàn toàn vô nghĩa. Khi chỉ cần với tay thu lượm các sản phẩm của tự nhiên để phục vụ cuộc sống còn nặng bản năng tự nhiên, theo kiểu tự cấp tự túc, người ta chỉ quan tâm đến những thứ có thể ăn được còn hay hết, chứ không quan trọng việc có trí thức hay không trí thức.

Điều đó dẫn đến một nhận định: thời điểm sớm nhất để hình mẫu, và do đó là khái niệm, về trí thức xuất hiện là khi loài người rời bỏ đời sống săn bắt hái lượm để tập hợp thành xã hội với cấu trúc tương đối chặt chẽ, khởi đầu bởi việc phát minh ra nông nghiệp, khoảng 8000-3500 năm trước công nguyên, và sau đó là chuyển vào sống trong các đô thị, không phải bởi trào lưu đô thị hóa thời hiện đại, mà ngay sau khi nông nghiệp đã tương đối phát triển, khoảng 3500-800 năm trước công nguyên.

Việc phát minh ra nông nghiệp đòi hỏi phải thuần hóa một số giống cây trồng và động vật. Còn việc chuyển vào sống trong các đô thị đòi hỏi những kỹ năng tổ chức và dịch vụ cao cấp hơn đời sống nông nghiệp, khi những người sống trong đô thị không trực tiếp sản xuất ra thực phẩm. Đây chính là môi trường thuận lợi để những loại hình lao động mới, và do đó là các giai tầng mới ra đời, trong đó có trí thức.

Nhận định này cho thấy, hình mẫu và khái niệm về trí thức chỉ có thể xuất hiện khi xã hội với một cấu trúc chặt chẽ được hình thành, tức là khi con người rời bỏ đời sống hoang dã để tập hợp lại với nhau, hình thành nên những cộng đồng người, trong đó các cá nhân tương tác với nhau theo những qui định và nghi thức được cả cộng đồng thừa nhận, dù là thành văn hay ngầm định. Nói cách khác, trí thức là một sản phẩm đặc biệt của xã hội.

Việc đồng nhất hoạt động của trí thức với lao động trí óc, và vai trò của họ với việc khám phá, truyền bá và sử dụng tri thức, tuy không sai nhưng thiếu chính xác. Đó là nguyên nhân vì sao những tranh luận về trí thức kéo dài mãi không ngừng.
Điều này cũng cho thấy, việc chọn ra một mốc thời gian cụ thể, gắn với một sự kiện cụ thể trong thời cận đại hoặc hiện đại, như ra đời của bản kháng nghị năm 1906 –sau đó được thủ tướng Pháp Clemenceau gọi là Tuyên ngôn của trí thức - nhằm chống lại một bản án oan sai trong “sự kiện Dreyfuss”, do nhà văn Pháp Émile Zola ký tên đầu, làm thời điểm ra đời của khái niệm trí thức là không chính xác. Hình mẫu về người trí thức, và do đó là khái niệm trí thức, chắc chắn phải xuất hiện sớm hơn thế rất nhiều, khi xã hội có cấu trúc chặt chẽ được hình thành. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định “trí thức là gì?” sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, và thay đổi theo sự phát triển của xã hội.


Vì thế, việc tra cứu các văn bản có chữ “trí thức” sẽ không giúp nhiều cho việc làm rõ nội hàm của khái niệm trí thức. Thay vào đó, cần đi vào tìm hiểu những đặc trưng chính của người trí thức, đặc biệt ở thời hiện đại, thông qua phân tích công việc và vai trò của họ đối với xã hội, mới có hy vọng trả lời một cách rốt ráo câu hỏi: Trí thức là gì?

Phân công lao động

Đã là con người, dù muốn hay không, trước hết phải đáp ứng được những nhu cầu sinh học tối thiểu của mình như ăn, uống, ở, mặc… Nếu như ở thời săn bắt hái lượm, những nhu cầu này được đáp ứng theo kiểu “tự cung tự cấp”, tức mỗi cá nhân phải tự lo cho mình, thì trong đời sống nông nghiệp và đặc biệt là đô thị, các nhu cầu này được đáp ứng không chỉ bởi kiểu “tự cấp tự túc”, mà còn bởi các dịch vụ trao đổi phức tạp.

Cấu trúc chặt chẽ của xã hội và sự tương tác giữa các thành phần của nó cũng đã làm nảy sinh nhiều nhu cầu khác so với nhu cầu sinh lý thuần túy, như các nhu cầu về giải trí, nghệ thuật, sinh hoạt tinh thần, nghi lễ tôn giáo… Việc đáp ứng những nhu cầu này đòi hỏi những kỹ năng và kiến thức chuyên biệt, cần được học hỏi và tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định, nên không phải cá nhân nào cũng có thể làm được.

Đây chính là cơ sở cho việc hình thành sự phân công lao động, và như một hệ quả, là mảnh đất sống cho những tầng lớp mới có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mình không thông qua sản xuất trực tiếp. Đặc điểm chung của họ là sử dụng lao động trí óc nhiều hơn lao động chân tay trong việc tạo ra sản phẩm; và sản phẩm của họ cũng không mang tính “tự cấp tự túc”, tức không thể dùng để đáp ứng trực tiếp các nhu cầu sinh học tối thiểu, mà dùng để trao đổi với người khác, dưới dạng hàng hóa hoặc dịch vụ.
Ở thuở ban đầu, có thể hình dung công việc này liên quan đến các hoạt động văn hóa, giả trí, nghi lễ, tôn giáo, quản lý cộng đồng… Nói chung là liên quan đến các hoạt động tinh thần của con người và tương tác giữa người này với người khác trong xã hội. Đây là sự rẽ nhánh lần thứ nhất trong quá trình phân công lao động.

Tuy cá nhân là phần tử cơ bản hợp thành xã hội, nhưng chính cá nhân cũng là nạn nhân của xã hội, theo nghĩa bị xã hội tìm cách đồng hóa làm mất các đặc trưng riêng của mình. Tổ chức xã hội càng phức tạp thì mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội càng lớn, sức ép của xã hội lên cá nhân càng nặng nề.
Theo thời gian, xã hội càng phát triển và càng phức tạp, việc đáp ứng những nhu cầu này đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng càng chuyên biệt hơn nữa, cần nhiều thời gian và năng lượng hơn nữa, nên không một cá nhân nào có thể đáp ứng được tất cả những yêu cầu này, mà cần chuyên chú vào một hoặc một nhóm kỹ năng chuyên biệt. Tầng lớp lao động gián tiếp được phân chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo đặc thù của công việc, chẳng hạn: nghệ sĩ đáp ứng các nhu cầu giải trí, luật sư đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp của các cá nhân và tổ chức, bác sĩ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo viên đáp ứng nhu cầu giáo dục thanh thiếu niên, chính trị gia đáp ứng nhu cầu quản trị xã hội… Đây chính là sự rẽ nhánh thứ hai trong quá trình phân công lao động.


Trong lần rẽ nhánh này, các thể loại công việc đã đa dạng hơn rất nhiều so với trước đây, nên tầng lớp lao động gián tiếp cũng trở nên phong phú hơn nhiều. Tuy nhiên, cũng giống như sự rẽ nhánh lần thứ nhất, mẫu số chung trong lao động của họ vẫn là phần lao động trí óc nhiều và quan trọng hơn phần lao động chân tay. Đặc biệt, trong số những người lao động trí óc, có một nhóm nhỏ tập trung vào việc thu thập và xử lý thông tin; phân loại và hệ thống hóa thông tin để hình thành tri thức; sử dụng tri thức để đào tạo người khác, hoặc ứng dụng cho những công việc cụ thể khác nhau… Nói gọn là khám phá, truyền bá và sử dụng tri thức.

Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, khối lượng tri thức này ngày càng nhiều và càng chuyên biệt hóa. Kết hợp với sự công nghiệp hóa và sản xuất đại trà, và sau đó là sự ra đời của công nghệ thông tin, tri thức ngày càng trở lên quan trọng. Trong nhiều lĩnh vực kinh tế và dịch vụ, tri thức đã trở thành đồng thời là lực lượng sản xuất và hàng hóa trao đổi chính. Vì thế, ai nắm được tri thức, người đó có sức mạnh.

Chính nhờ việc nắm được sức mạnh này, một dạng sức mạnh mới mẻ hoàn toàn so với sức mạnh cơ bắp, những người lao động trí óc này trở nên có vai trò quan trọng trong xã hội. Nhiều người gọi họ là trí thức. Tuy nhiên, việc đồng nhất hoạt động của trí thức với lao động trí óc, và vai trò của họ với việc khám phá, truyền bá và sử dụng tri thức, tuy không sai nhưng thiếu chính xác. Đó là nguyên nhân vì sao những tranh luận về trí thức kéo dài mãi không ngừng.

Cá nhân và xã hội


Như phân tích ở trên, trí thức là một sản phẩm đặc thù của xã hội. Sự ra đời của trí thức gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, nếu tách trí thức khỏi xã hội để định nghĩa xem trí thức là gì thì sẽ còn phiến diện hơn cả việc đưa cá ra khỏi nước để tìm hiểu hoạt động của cá. Lý do là khi cá ra khỏi nước thì cá vẫn là cá về mặt hình thức, nhưng đưa trí thức ra khỏi xã hội thì trí thức sẽ biến mất.

Xã hội được hợp thành bởi các cá nhân. Nhưng sự hợp thành này không phải là sự kết hợp cơ học thuần túy. Cụ thể, tính chất của xã hội không chỉ đơn thuần là tổng tính chất của các phần tử hợp thành, mà còn được quyết định phần nhiều bởi cơ chế tương tác giữa các phần tử. Chính cơ chế tương tác có tính cách nhân tạo này đã làm cho xã hội trở thành một hệ thống, tạo ra các đặc thù văn hóa, kinh tế, chính trị… và đến lượt nó, quay trở lại chi phối toàn bộ lối sống, nếp suy nghĩ, cách thức ứng xử của các cá nhân dưới dạng cả vô thức lẫn ý thức thông qua tập quán, giáo dục và luật pháp.

Xã hội khi đó trở thành một thực thể có tính độc lập tương đối với cá nhân. Tính chất của xã hội sẽ phụ thuộc phần lớn vào chính cơ chế vận hành, tức cơ chế tương tác giữa các phần tử của xã hội, và những đặc trưng của nó, chứ không phải là tính chất của các cá nhân riêng lẻ. Sức ép của xã hội lên cá nhân trong trường hợp này là rất lớn, và đặc biệt lớn trong các xã hội toàn trị hoặc thần quyền.

Như vậy, có sự tương tác hai chiều mãnh liệt, dưới dạng bồi đắp, chi phối, kiểm soát hoặc tàn phá lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội. Tuy cá nhân là phần tử cơ bản hợp thành xã hội, nhưng chính cá nhân cũng là nạn nhân của xã hội, theo nghĩa bị xã hội tìm cách đồng hóa làm mất các đặc trưng riêng của mình. Tổ chức xã hội càng phức tạp thì mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội càng lớn, sức ép của xã hội lên cá nhân càng nặng nề.

Trước sức ép thường trực này, cả dưới dạng vô thức và ý thức, cá nhân dần đánh mất đi rất nhiều sự tự do và độc lập nguyên thủy của mình, mất dần khả năng tự quyết và tầm mức ảnh hưởng của mình trong các vận động xã hội lớn. Ngay cả trong những vận hành thường ngày của xã hội, điều này cũng không ngoại lệ, và có thể được minh chứng qua câu nói cửa miệng của rất nhiều người: Tại cơ chế!

Như vậy, trăm sự là tại cơ chế, tức có nguyên nhân từ sự vận hành của hệ thống, chứ không phải là từ cá nhân.

Giá trị phổ quát

Khi từ bỏ đời sống săn bắt hái lượm tự do để bước vào đời sống xã hội với vô số tương tác, con người đã học cách cư xử, làm việc và chung sống với nhau, hình thành nên những nhân sinh quan, thế giới quan mới mà thời nguyên thủy không có. Theo thời gian, những nhân sinh quan, thế giới quan này sẽ được tinh luyện để tạo thành những giá trị có tính phổ quát, tức đúng trong một khoảng thời gian rất dài và với đại chúng, như Chân, Thiện, Mỹ; và gần đây hơn là Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân quyền, Công lý… Những giá trị phổ quát này sẽ đóng vai trò định chuẩn cho xã hội, tỏa ra trong mọi ngõ ngách của đời sống, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của cá nhân dưới nhiều thể nhiều dạng khác nhau như văn hóa, thói quen, tác phong… Với vai trò định chuẩn này, chúng sẽ giúp xã hội vận hành trơn tru và phát triển được trong thế ổn định tương đối, tránh được những xung đột, đổ vỡ và hỗn loạn do mâu thuẫn lợi ích và xung đột văn hóa gây ra. Chúng cũng giúp điều hòa mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội hầu cho cá nhân không bị bóp nghẹt trước sự chèn ép của xã hội; giúp cho xã hội giữ được sự lành mạnh cần thiết, không bị tha hóa thành một địa ngục nhân tạo do lòng tham, bạo lực và sự u mê gây ra, đặc biệt là từ sự lạm dụng các phương tiện vật chất và quyền lực của những cá nhân có thể chi phối sự vận hành của cả hệ thống.

“Đi tắt đón đầu” trong phát triển, không có cách nào nhanh và hiệu quả hơn việc chủ động hấp thụ và quảng bá những giá giá trị phổ quát mới, hội nhập vào những dòng chảy mới của thời đại. Còn kéo lùi sự phát triển, không cách nào ghê gớm hơn việc ngăn chặn sự truyền bá cac giá trị phổ quát và tinh hoa tư tưởng của nhân loại.
Những giá trị phổ quát này ổn định trong một khoảng thời gian dài, nhưng không phải là bất biến. Nếu như Chân, Thiện, Mỹ có thể được coi như một giá trị phổ quát ở cả phương Đông lẫn phương Tây, tồn tại bền vững từ hàng nghìn năm nay, thì Trung quân – tức là trung thành với nhà Vua – một giá trị có tính phổ quát thời phong kiến, đã bị loại bỏ vì đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội hiện đại. Gần đây, một số giá trị  như Tự do, Dân chủ, Bình đẳng, Nhân quyền… được coi là những giá trị phổ quát mới, bên cạnh bộ ba Chân-Thiện-Mỹ truyền thống.


Việc hình thành một, hoặc một bộ, giá trị phổ quát thường rất gian nan, và phải trả những giá rất đắt. Thông thường, những giá trị phổ quát này sẽ được hình thành ở một nơi nào đó có những điều kiện chín muồi và lan dần sang các nơi khác tiếp xúc với nó như những làn sóng văn hóa, kinh tế, chính trị…, hình thành nên một xu thế mới của phát triển.

Do vai trò quan trọng của các giá trị phổ quát đối với việc bảo vệ cá nhân, bảo vệ sự lành mạnh của xã hội, cũng như định hướng phát triển cho xã hội sao cho hòa nhịp được với những trào lưu phát triển mới, nên trong các cuộc đấu tranh phát triển, chúng thường được coi là chính nghĩa. Chúng có sức mạnh nội tại như một giá trị phổ quát và sức mạnh thời đại của một trào lưu mới, nên trong các cuộc đối đầu, lực lượng nào nắm được chính nghĩa, hoặc được dân chúng tin là có chính nghĩa, thường là người thắng cuộc. Lực lượng này cũng thường được coi là tiến bộ vì hòa nhập được với sức mạnh của một trào lưu phát triển mới. Ngược lại, nếu tìm cách lảng tránh hoặc chống trả những giá trị phổ quát này, vì thiển cận hoặc vì lợi ích của một nhóm nhỏ, xã hội sẽ phải trả giá đắt, thậm chí bị phá hủy, vì cưỡng lại một động năng phát triển khổng lồ của thời đại. Những người chống lại các giá trị phổ quát mới này, và do đó là chống lại các làn sóng phát triển mới, sẽ bị coi là phản động, theo đúng nghĩa đen của từ này.

Do giáo dục, ràng buộc, định kiến, qui tắc, nghi lễ, luật pháp, định chế, sự sợ hãi, sự u mê, áp lực cuộc sống, lòng tham, sự toan tính… mà các cá nhân thường quên mất rằng, mình có một tự do nội tại bất khả xâm phạm, bất khả tước đoạt. Có thể gọi điều này là sự đánh mất mình.
Với những nơi không phải là chỗ xuất phát của những giá trị phổ quát mới này, nếu biết chủ động và khôn khéo cưỡi lên những đợt sóng phát triển này thì sẽ tận dụng được động năng to lớn của cả một trào lưu mới, thường được gọi là sức mạnh thời đại, để phát triển. Do đó, “đi tắt đón đầu” trong phát triển, không có cách nào nhanh và hiệu quả hơn việc chủ động hấp thụ và quảng bá những giá giá trị phổ quát mới, hội nhập vào những dòng chảy mới của thời đại. Còn kéo lùi sự phát triển, không cách nào ghê gớm hơn việc ngăn chặn sự truyền bá các giá trị phổ quát và tinh hoa tư tưởng của nhân loại.


Về mặt triết học, có thể coi các giá trị phổ quát chính là kết quả của các quá trình đấu tranh biện chứng trong nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Sau khi đã được hình thành, được tinh luyện theo thời gian và được thừa nhận rộng rãi, thì chính các giá trị phổ quát sẽ trở thành các trung giới cho các quá trình biện chứng khác đang hàng ngày hàng giờ diễn ra trong mọi mặt của của đời sống, với tư cách định chuẩn cho sự vận hành và phát triển của cả xã hội.

Tự do nội tại

Áp lực của xã hội với tư cách là một hệ thống lên cá nhân, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, là một điều được thừa nhận hiển nhiên. Tuy nhiên, vấn đề có tính triết học cần đặt ra: Đâu là giới hạn của sự chèn ép này? Có chăng một khoảng tự do nội tại, bất khả xâm phạm, bất khả tước đoạt bởi các yếu tố bên ngoài, trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân? Nếu có, cá nhân nên sử dụng khoảng tự do bất khả tước đoạt đó như thế nào để tự bảo vệ mình và bảo vệ sự lành mạnh của xã hội?

Con người, từ khi chuyển từ vượn thành người, và thông qua lịch sử phát triển của mình, đã tự chứng minh là một sinh vật có lý trí. Điều này có nghĩa, con người có thể sử dụng lý trí của mình để đưa ra các lựa chọn. Quá trình này diễn ra trong bộ não người, do đó về bản chất, có tính độc lập tương đối với những gì đang diễn ra ở bên ngoài. Chính khoảng độc lập tương đối này là cơ sở cho sự tồn tại của một thứ tự do có tính chất nội tại, bất khả xâm phạm đối với mọi chèn ép từ xã hội bên ngoài lên cá nhân.

Đây là thứ tự do không thể tước đoạt. Trong trường hợp cùng cực nhất, cá nhân vẫn có thể lựa chọn bất hợp tác, hoặc cao hơn là tự hủy, bằng cách này hoặc cách khác. Các trường hợp tuyệt thực, tuẫn tiết… là những ví dụ điển hình cho lựa chọn của cá nhân trong những trường hợp khốn cùng. Chính những lựa chọn tự hủy của cá nhân trong các trường hợp này đã chứng thực cho tính không thể tước đoạt bởi xã hội của thứ tự do này.

Trong thực tế, do giáo dục, ràng buộc, định kiến, qui tắc, nghi lễ, luật pháp, định chế, sự sợ hãi, sự u mê, áp lực cuộc sống, lòng tham, sự toan tính… mà các cá nhân thường quên mất rằng, mình có một tự do nội tại bất khả xâm phạm, bất khả tước đoạt. Có thể gọi điều này là sự đánh mất mình. Chỉ trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, hoặc sau một quá trình chiêm nghiệm và tu tập lâu dài, cá nhân mới tái khám phá ra sự tồn tại của thứ tự do nội tại này. Sự kiện này thường được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau, như sự thức tỉnh, ngộ đạo, tìm lại được bản thân mình… nhưng đều có chung bản chất là tái khám phá ra tự do nội tại của cá nhân để thoát khỏi định kiến và sự sợ hãi, giành lại sự tự chủ cho cá nhân trong mọi cuộc ứng xử với chính mình và thế giới bên ngoài.

Chính việc ý thức được sự tồn tại của thứ tự do nội tại này sẽ giúp cá nhân đứng vững trước sự chèn ép của xã hội. Và thông qua đó, cá nhân ý thức được bản ngã và giá trị của bản thân mình, đồng thời điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp nhất, theo nghĩa tốt cho không chỉ bản thân cá nhân đó mà còn cả cộng đồng. Điều này tạo cơ sở cho sự hình thành một phẩm tính khác, gọi là lương tri. Như vậy, tự do nội tại của cá nhân chính là nơi trú ngụ của lương tri con người.

Điều này giải thích vì sao những người tu tập để khám phá và nuôi dưỡng tự do của riêng mình, những người dám cất lên tiếng nói hoặc dấn thân bảo vệ tự do của con người, lại thường được gọi là lương tâm của xã hội hay rộng lớn hơn là lương tri của nhân loại.

Điều thú vị là thứ tự do này, nếu xét về tầm mức thì rất nhỏ bé và chỉ xuất lộ trong những hoàn cảnh đặc biệt, lại thường được gọi là đại tự do. Chắc hẳn điều này gắn liền với mức độ tác động của nó đối với cuộc sống của cá nhân, và cả ở sự khó khăn của mỗi người phải trải qua trước khi đạt được nó.

Với người trí thức, việc nhận thức được sự tồn tại của thứ tự do nội tại này sẽ giúp họ có đủ cơ sở ở trong lý luận, và sau đó là dũng cảm ở trong hành động, để theo đuổi những giá trị phổ quát đã nói ở trên, hầu thực hiện vai trò xã hội của chính mình.
Trả lời câu hỏi: Trí thức là gì? (Tiếp theo và hết)
Giáp Văn Dương
Vì nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá những giá trị phổ quát, nên về mặt hình thức, người trí thức thường có xu hướng đứng về phía đại chúng. Tuy nhiên, đây không nhất thiết phải là điều luôn luôn đúng. Xét về bản chất, người trí thức sẽ đứng về phía những giá trị phổ quát, bất kể nó đang ở phía bên này hay bên kia.
Trí thức là gì?

Như vậy, đến đây đã có đủ cơ sở để trả lời câu hỏi “Trí thức là gì?”, như sau: Trí thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị phổ quát của nhân loại và sử dụng chúng như những trung giới trong các quá trình vận động biện chứng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

Từ cách hiểu về trí thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ và quảng bá những giá trị phổ quát của con người, có thể suy ra, và sau đó là kiểm chứng, những phẩm tính của người trí thức. Tùy hoàn cảnh cụ thể mà các phẩm tính này thể hiện ra dưới dạng khác nhau, nhưng có thể liệt kê một vài trong số đó: Yêu tự do, yêu chân lý, yêu mến cái đẹp, tư duy độc lập, trung thực, sáng tạo, lương thiện, không thoả hiệp với cái xấu và cái ác…

Những phẩm tính này sẽ được bộ lộ ra thông qua hành động của họ, ở mức cơ bản nhất là lựa chọn và thái độ. Do đó, xã hội nhận biết một cá nhân có phải là trí thức hay không, trước hết thông qua lựa chọn và thái độ của cá nhân này, sau đó là trong chuỗi hành động của anh ta và hệ quả của nó đối với xã hội.

Như vậy, người trí thức với tư cách là một sản phẩm đặc thù của xã hội, xuất lộ khi xem xét dưới góc nhìn của xã hội đối với cá nhân, phải là người có lựa chọn và thái độ rõ ràng đối với các vấn đề xã hội, ở mức độ đủ tường minh để xã hội nhận biết được. Xã hội càng loạn lạc thì lựa chọn và thái độ càng phải rõ ràng, hầu cho đại chúng có thể nhận ra được mà hướng theo. Chính qua lựa chọn và thái đội của mình, người trí thức khẳng định cơ sở tồn tại của mình, và qua đó là được xã hội thừa nhận từ xã hội như một hệ quả. Nói cách khác, cơ sở tồn tại của người trí thức nằm ở mối tương quan của anh ta với xã hội, chứ không phải trong đời sống cá nhân. Vai trò của người trí thức, vì thế, cũng nằm ở vai trò xã hội của anh ta. Thiếu vai trò xã hội này, người trí thức sẽ suy biến thành một nhà chuyên môn thuần túy.

Do đặc tính trừu tượng của những giá trị phổ quát, nên những người nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá chúng thường là người lao động trí óc. Điều này gây ra một cảm nhận rằng trí thức là người lao động trí óc. Tuy nhiên, qua những phân tích ở trên, có thể thấy nhận định này là phiến diện. Lý do là nó đã chỉ tập trung vào một đặc điểm nhận dạng, mà không chỉ ra được đặc trưng cơ bản nhất của người trí thức, và đặc biệt, không xét người trí thức trong tương quan của họ đối với xã hội.

Do sự phân công lao động, những người lao động trí óc thường phải là người được đào tạo, tức người có học, định lượng chủ yếu thông qua bằng cấp. Do đó, cũng có ý kiến cho rằng, trí thức là người có học, hoặc cụ thể hơn là người đã tốt nghiệp đại học. Định nghĩa này còn phiến diện hơn cả định nghĩa trí thức là người lao động trí óc, nhất là khi việc học đại học đang ngày càng trở thành phổ cập.

Cũng vì nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá những giá trị phổ quát, nên về mặt hình thức, người trí thức thường có xu hướng đứng về phía đại chúng. Tuy nhiên, đây không nhất thiết phải là điều luôn luôn đúng. Xét về bản chất, người trí thức sẽ đứng về phía những giá trị phổ quát, bất kể nó đang ở phía bên này hay bên kia.

Cũng cần lưu ý rằng trí thức không phải là một nhãn mác vĩnh cửu, một khi đã được dán lên một cá nhân nào đó thì mãi mãi không thay đổi. Đời sống của mỗi cá nhân là tổng hợp của vô vàn hoạt động, trong đó có nhiều hoạt động mang tính bản năng, nên không hẳn lúc nào cũng có các giá trị phổ quát ở trong đó. Cho nên, sẽ rõ ràng hơn nếu nhìn nhận rằng, người trí thức có những phẩm tính đặc trưng, và những phẩm tính này sẽ bộc lộ ra ở những thời điểm cần thiết, chứ không nhất thiết phải đóng khung một hình mẫu cứng nhắc. Ngay cả khi một người đã được thừa nhận là trí thức, thì cũng không có gì đảm bảo rằng anh ta sẽ không bị tha hóa dưới tác động của lòng tham và sự u mê. Sự tha hóa này có thể được hiểu là việc người trí thức buông bỏ tự do nội tại và những giá trị phổ quát để hùa theo cường quyền, hùa theo cái ác và cái xấu, nhằm trục lợi cá nhân. Trong trường hợp này, anh ta không còn là trí thức, dù vẫn còn đầy đủ chức danh, bằng cấp, hay sự thừa nhận chính thức của các cơ quan công quyền.

Ngược lại, có những người ban đầu chỉ là nhà chuyên môn thuần túy, nhưng sau đó ý thức được vai trò xã hội của mình, ý thức được sự cần thiết phải bảo vệ và quảng bá những giá trị phổ quát,  nên dần chuyển hóa thành người trí thức.Vì thế, trí thức là một khái niệm động, chứ không phải là một nhãn mác vĩnh cửu. Người trí thức do đó, cũng luôn cần phải tự soi mình.

Vì tự do và các giá trị phổ quát đều thuộc về nhận thức cá nhân, hoạt động chủ yếu trong đời sống tinh thần của cá nhân đó, nên sự tha hóa của trí thức rất khó nhận biết, nhất là khi đã được khéo léo ngụy trang bởi bằng cấp, chức danh, truyền thông đại chúng… Vì thế, trí thức chân chính bao giờ cũng rất ít, chỉ được nhận biết trước hết bởi cá nhân họ, sau đó là sự thừa nhận của xã hội thông qua hành vi của họ, mà trước hết là ở lựa chọn và thái độ của họ đối với các vấn đề xã hội.

Sự đánh tráo các giá trị phổ quát, hoặc ngụy tạo cho những giá trị phổ quát ảo bằng tuyên truyền và các mỹ từ, nhằm trục lợi cá nhân hoặc  bảo vệ lợi ích phe nhóm, cũng thường xảy ra trong lịch sử, nhất là ở những nơi dân trí còn chưa được mở mang đúng mức. Trong trường hợp này, tất yếu sẽ xuất hiện những kẻ, thậm chí là nhóm lớn, ngụy trí thức. Đây chính là những kẻ đạo đức giả, kẻ thù tự nhiên của trí thức chân chính.

Phân biệt được đâu là trí thức chân chính, đâu là ngụy trí thức, nếu chỉ căn cứ trên lời nói và sự phô diễn, thì thường rất khó khăn. Nhưng nếu nhìn vào hành vi của họ, từ động cơ thực hiện, phương tiện sử dụng và mục đích hướng tới, và đặc biệt là hậu quả của các hành vi này với đối với xã hội trên diện rộng, thì những ngụy trí thức này sẽ hiện nguyên hình là kẻ đạo đức giả hoặc “lưu manh giả danh trí thức”.

Vai trò xã hội của trí thức

Nếu chỉ xét mối tương quan giữa cá nhân và xã hội, trí thức chính là người bị chèn ép nhiều nhất vì có khả năng nhất trong việc chỉ ra những yếu kém của xã hội. Tuy nhiên, người trí thức có những vũ khí mà xã hội không thể tước đoạt, đó là tự do nội tại và những giá trị phổ quát. Người trí thức sẽ dùng chính vũ khí này để thực hiện sứ mệnh của mình, qua đó khẳng định sự tồn tại của mình, đối với xã hội. Vậy sứ mệnh của trí thức, hay vai trò xã hội của trí thức, là gì?

Dưới góc độ chuyên môn, trí thức chính là người tìm kiếm và sáng tạo ra những tri thức mới, và sau đó là truyền bá và sử dụng những tri thức này để nâng cao đời sống của xã hội, cả về vật chất lẫn tinh thần. Chiếm lĩnh được tri thức, người trí thức có sức mạnh, và do đó có ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Sự đóng góp của người trí thức đối với xã hội, trước hết nằm ở khía cạnh này.

Tuy nhiên, những tìm kiếm và sáng tạo tri thức cần phải dựa trên những giá trị phổ quát, hướng đến việc thúc đẩy, hoặc ít nhất là vô hại, sự phát triển của xã hội. Nếu một sáng tạo hoặc tìm kiếm tri thức mục đích của nó là nhằm thống trị hay hủy diệt con người, hoặc hủy hoại những thành tựu văn hóa của con người, thì người sáng tạo ra tri thức đó không thể được gọi là trí thức, mà là tội phạm hoặc kẻ khủng bố. Trong các cuộc chạy đua vũ trang trên thực tế, đặc biệt là trong các nghiên cứu liên quan đến vũ khí hóa học, sinh học, nguyên tử, rất khó phân định đâu là sự tìm kiếm tri thức nhằm thống trị và đâu là để tự vệ. Đó chính là lý do vì sao các hoạt động tìm kiếm và sáng tạo tri thức cần phải chịu sự giám sát chặt chẽ của các tiêu chuẩn đạo đức, cả ở mức chuyên biệt và phổ quát. Nếu không, dưới sự thúc giục của lòng tham và nhu cầu quyền lực, sẽ có những tội ác nhân danh sự tìm kiếm tri thức mà kẻ thực hiện chúng là những tội phạm giả danh trí thức. Trong những trường hợp đặc biệt này, lương tri và đạo đức cần phải được đặt cao hơn tri thức, mà ví dụ điển hình là việc nhiều nhà khoa học đồng thanh yêu cầu dừng sử dụng năng lượng nguyên tử làm vũ khí hủy diệt, dù trước đó họ có đóng góp trong việc khám phá ra thứ năng lượng này.

Bên cạnh việc tìm kiếm, sáng tạo và truyền bá tri thức, do lợi thế về am hiểu chuyên môn, trí thức cần là người lên tiếng cảnh báo những nguy cơ và hiểm họa đến từ tự nhiên và xã hội. Những hiểm họa đến từ tự nhiên có thể được cảnh báo nhờ máy móc thiết bị, nhưng hiểm họa đến từ xã hội thì không thể. Do đó, việc có chính kiến, và gióng lên hồi chuông cảnh báo công luận trước những hiểm họa , đặc biệt là hiểm họa nhân tạo, là vai trò của trí thức.

Đây là sự cảnh báo nhân danh những giá trị phổ quát, chứ không phải là nhân danh cá nhân người trí thức. Vì thế, sự cảnh báo thường có tính độc lập và khách quan tương đối. Sức mạnh của cảnh báo, đặc biệt là những cảnh bảo xã hội, phụ thuộc chủ yếu vào bộ giá trị phổ quát mà nó dựa vào, chứ không phải ở vị trí xã hội của người đưa ra cảnh báo hoặc số người tham dự. Chính nhờ vai trò cảnh báo này mà người trí thức thường được coi là lương tri của xã hội.

Sự cảnh báo, nếu chỉ giới hạn vào các hiểm họa nhân tạo có thể xảy đến từ các chính sách thiếu cơ sở của nhà cầm quyền, thì thường được hiểu như là sự phản biện chính sách, hay phản biện xã hội khi mở rộng ra các lĩnh vực khác. Sự phản biện này chỉ xuất hiện khi một chính sách đã hoặc sắp hình thành, nên có phạm vi tác động nhỏ hơn sự cảnh báo. Vì thế, phản biện không thể thay thế được cảnh báo.

Bên cạnh hai vai trò đã nêu trên, trí thức cũng chính là người định chuẩn trong xã hội, sao cho xã hội được lành mạnh, vận hành hiệu quả, phát triển bền vững. Sự định chuẩn này cũng cần phải dựa trên cơ sở là những giá trị phổ quát, chứ không phải là những kiến thức chuyên biệt hay ý muốn của bất cứ cá nhân hoặc nhóm người nào. Chỉ khi nào việc định chuẩn dựa được trên những giá trị phổ quát, đã được kiểm chứng ở nhiều nơi trong suốt chiều dài lịch sử, thì mới có thể giảm thiểu được những sai sót và ấu trĩ về nhận thức gây ra. Ngược lại, nếu sự định chuẩn này chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của một vài cá nhân, hoặc tri thức chuyên môn của một nhóm người, thì khả năng gặp phải sai sót do sự ấu trĩ, thiển cận, hạn hẹp tầm nhìn, là rất lớn.

Việc định chuẩn này không phải là đưa ra một giải pháp cụ thể, do đó không thể đòi hỏi trí thức phải đưa ra giải pháp cho từng vấn đề riêng biệt. Đưa ra giải pháp là công việc của các nhà chuyên môn, còn ban hành chính sách là công việc của các chính trị gia. Người trí thức chỉ dùng các giá trị phổ quát, như Chân, Thiện, Mỹ, Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân quyền… để định chuẩn cho mọi hoạt động của xã hội, bất kể đó là các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục v.v.

Các giá trị phổ quát là kết tinh của các kinh nghiệm hoạt động của con người trong suốt chiều dài lịch sử, nên mang trong mình tính kế thừa, cả trong thời gian lẫn không gian. Vì thế, nếu sử dụng các giá trị phổ quát làm cơ sở cho việc định chuẩn cho xã hội thì sẽ tránh được những đổ vỡ, xáo trộn do sự mâu thuẫn và va đập giữa các thang giá trị của các thế hệ và các nền văn hóa khác nhau. Nếu sự định chuẩn này đặt cơ sở trên các giá trị mới chưa được kiểm chứng, hình thành nên do sự mò mẫm hoặc ý muốn chủ quan với mong muốn tạo ra những nhảy vọt lớn, hay những ảo tưởng thiếu cơ sở, thì việc tạo ra các đứt gãy, làm phá vỡ sự bền vững của xã hội, gây nên nhiều tai họa cho dân chúng là điều khó tránh khỏi. Cuộc cách mạng văn hóa tàn khốc ở Trung Quốc những năm 1958-1968 là minh chứng rõ rệt cho điều này.

Chính vì thế, nếu xem xét xã hội như một tiến trình liên tục, tiến lên được nhờ những đấu tranh biện chứng, cả trong nhận thức và hành động, thì các giá trị phổ quát sẽ đóng vai trò là các trung giới của các quá trình đấu tranh biện chứng này, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong mọi mặt của đời sống. Người trí thức với tư cách là người nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá những giá trị phổ quát, vì lẽ đó, cũng đã tự đặt mình vào vị trí trung giới của các quá trình vận động biện chứng của xã hội. Họ chính là người tạo điều kiện cho sự ra đời và nâng đỡ cái mới tiến bộ, và loại bỏ cái cũ đã lạc hậu, giúp cho xã hội đổi mới và phát triển không ngừng.

Thay lời kết

Trí thức là một sản phẩm đặc biệt của xã hội. Sự xuất hiện của người trí thức gắn liền với việc hình thành xã hội. Do đó, ý nghĩa của khái niệm trí thức, và sâu xa hơn là vai trò của người trí thức, chỉ có thể được hiểu đầy đủ khi đặt vào mối liên hệ với xã hội. Chính nhờ việc đặt vào mối liên hệ này, những đặc trưng của người trí thức mới được xuất lộ. Trong số những đặc trưng này, quan trọng nhất là tìm kiếm, sáng tạo và truyền bá tri thức - gọi là đặc trưng tri thức; cảnh báo các hiểm họa cho xã hộ - gọi là đặc trưng cảnh báo; và định chuẩn cho xã hội – gọi là đặc trưng định chuẩn. Tất cả các hoạt động liên quan đến ba đặc trưng này của người trí thức đều phải dựa trên những giá trị phổ quát mà họ nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá.

Có thể biểu diễn ba đặc trưng này và mối quan hệ giữa chúng trên một hình tam giác, tạm gọi là tam giác đặc trưng, như sau:

 
Tùy theo năng lực cá nhân và tính cách mà mỗi người trí thức có một tam giác đặc trưng, với kích thước và hình dạng khác nhau. Kích thước của tam giác đặc trưng phụ thuộc trước hết vào tài năng cá nhân của người trí thức, sau đó là độ lớn của chiều kích các giá trị phổ quát mà người trí thức theo đuổi. Còn hình dạng của tam giác đặc trưng phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp của người trí thức trên ba phương diện “Tri thức – Định chuẩn – Cảnh báo” đối với xã hội. Các tỷ lệ này gia giảm tùy theo đặc thù , ưu tiên công việc và cá tính của mỗi người, nhưng không được biến mất hoàn toàn. Nếu không, tam giác đặc trưng sẽ suy biến thành một đoạn thẳng hoặc điểm.  Trong trường hợp suy biến thành đoạn thẳng, người trí thức sẽ không còn là một điển hình mẫu mực. Còn trong trường hợp suy biến thành điểm, người trí thức bị suy thoái thành nhà chuyên môn thuần túy nếu chỉ tập trung vào tri thức, hoặc kẻ quấy rối nếu chỉ tập trung vào cảnh báo, hoặc kẻ đạo đức giả nếu chỉ tập trung vào định chuẩn.

Cũng qua tam giác đặc trưng này, thấy rằng: các giá trị phổ quát đóng vai trò trung tâm trong đời sống tinh thần, là bảng giá trị và vũ khí tối hậu của người trí thức. Buông bỏ chúng, người trí thức không chỉ trắng tay, mà còn xóa bỏ luôn các đặc trưng nhận dạng của mình, do đó xóa bỏ sự tồn tại của mình dưới góc nhìn xã hội.

Ở đỉnh thứ nhất của tam giác đặc trưng, thông qua việc chiếm giữ tri thức chuyên môn, người trí thức sẽ có được sức mạnh của sự hiểu biết, tư duy độc lập, sự sáng tạo, tức sức mạnh của lý tính. Với vai trò này, người trí thức được coi như bộ não của xã hội.

Ở đỉnh thứ hai của tam giác đặc trưng, thông qua việc cảnh báo những hiểm họa có thể xảy đến, đặt biệt là các hiểm họa nhân tạo do xã hội tạo ra, vai trò xã hội của trí thức được xuất lộ. Thông thường, sự cảnh báo này thường liên quan đến việc bảo vệ sự lành mạnh của xã hội, lên án sự chà đạp của cường quyền lên nhân tính, sự đồng cảm với những người kém may mắn, người thấp cổ bé họng, người đang chịu áp bức bất công, nên ở vai trò này, người trí thức thường được coi là lương tâm của xã hội.

Ở đỉnh thứ ba của tam giác đặc trưng, thông qua việc sử dụng những giá trị phổ quát để định chuẩn cho xã hội, người trí thức đã tự đặt mình vị trí gương mẫu cho đại chúng. Việc sử dụng những giá trị phổ quát như những trung giới của các quá trình đấu tranh biện chứng, hầu tạo ra sự đổi mới và phát triển của xã hội, ngưới trí thức đã tự đặt mình vào vị trí trung giới của sự phát triển. Vì thế, ở vai trò này, người trí thức được coi là người dẫn dắt sự phát triển của xã hội.

Cả ba vai trò này của người trí thức đều chỉ xuất lộ và phát huy tác dụng khi xét người trí thức trong mối quan hệ với xã hội. Chính ở trong mối quan hệ này, người trí thức tìm được cơ sở tồn tại của mình.