Powered By Blogger

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

'20 tuổi có thể tốt nghiệp đại học'



Cho rằng giáo dục Việt Nam đang có cấu trúc chắp vá, TS Lê Trường Tùng đề xuất, học sinh nên có bằng phổ thông ở tuổi 15. Bậc THPT hiện nay được thay bằng 2 năm "dự bị đại học".
Nỗi buồn của bạn trẻ về giáo dục Việt Nam / 'Chúng ta nợ xã hội một cuộc cải cách giáo dục'

Tại hội thảo "Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam trong môi trường công nghệ thông tin" mới đây, nhiều chuyên gia bày tỏ sự không hài lòng với nền giáo dục hiện tại và kiến nghị nhiều phương pháp đổi mới căn bản, toàn diện. Bài phát biểu của Hiệu trưởng ĐH FPT Lê Trường Tùng đã thu hút sự chú ý của nhiều người tham dự.
Theo TS Tùng, việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, đổi mới quản lý. Tuy nhiên, để đổi mới một cách đúng đắn phải bắt đầu từ công việc mang tính cơ bản là xem xét và thay đổi Kiến trúc của hệ thống giáo dục đào tạo Việt nam. Nếu thiếu một kiến trúc hợp lý, việc đổi mới giáo dục sẽ tiếp tục mang tính chắp vá.
Theo ông Tùng, mỗi quốc gia có một cấu trúc, một kiến trúc giáo dục đào tạo mà phần lớn nhìn gần giống nhau, từ nhà trẻ mẫu giáo – tiểu học – trung học – dạy nghề/cao đẳng/đại học. Giáo dục đào tạo Việt Nam sau nhiều thay đổi đang có cấu trúc/kiến trúc chắp vá 1 tiểu – 4 trung – 2 cao – 1 đại.
"1 tiểu" là một hệ tiểu học, "4 trung" là bốn hệ trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề, "2 cao" là hai hệ cao đẳng nghề và cao đẳng chuyên nghiệp, "1 đại" là một hệ đại học (bao gồm cả đại học và sau đại học). Với cấu trúc này, tuổi để có bằng ở các cấp tương ứng từ phổ thông đến đại học là 18, 21, 22-23 tuổi.
Hiệu trưởng ĐH FPT kiến nghị, cần cấu trúc lại nền giáo dục theo kiến trúc với "1 tiểu - 1 trung - 1 cao - 1 đại". Ảnh: Anh Tuấn.
Hiệu trưởng ĐH FPT cho rằng, kiểu kiến trúc mang tính chắp vá này cần phải thay đổi cơ bản để phù hợp với hội nhập quốc tế, tương thích với nhiều quốc gia, đảm bảo tính chuyển đổi, sử dụng được tài nguyên học tập quốc tế và trao đổi giáo dục quốc tế. Ngoài ra, thay đổi còn nhằm định hướng nghề nghiệp, phân luồng nghề nghiệp sớm, giải quyết tâm lý xã hội đang đổ xô chen chúc vào cửa đại học, giúp liên thông các cấp học trong nước mềm dẻo, dễ dàng, giảm thời gian vào đời, hướng tới việc học suốt đời và quản lý về mặt nhà nước thuận lợi, không chồng chéo.
Phương án kiến trúc đáp ứng được cả 5 mục tiêu trên được ông Tùng kiến nghị là kiến trúc "1111" thay cho kiểu kiến trúc "1421" với "1 tiểu - 1 trung - 1 cao - 1 đại". "1 tiểu" là một cấp tiểu học, thời gian là 5 năm, "1 trung" là một cấp trung học, thời gian 4 năm. "1 cao" là cao đẳng, thời gian học 3 năm, không phân biệt 2 hệ cao đẳng nghề và cao đẳng “không nghề", "1 đại" là đại học, thời gian học 3-4 năm thay cho 4-5 năm hiện nay.
"Mô hình 9 năm trong hệ thống giáo dục của Anh, được áp dụng rộng rãi tại các nước khối thịnh vượng chung. Học xong 9 năm học sinh sẽ có bằng tốt nghiệp văn hoá phổ thông", ông Tùng nói.
Hiệu trưởng ĐH FPT nhận xét, việc gộp cao đẳng nghề và cao đẳng “không nghề” đã được nhắc đến trong dự thảo đề án đổi mới giáo dục. Tuy nhiên, việc không còn trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề là một thay đổi quan trọng trong cấu trúc được đề xuất này.
Trung học phổ thông được thay bằng 2 năm “dự bị đại học” (Pre-University) dành cho những ai mong muốn học đại học, 2 năm dự bị này học theo định hướng chuyên môn qua các môn tự chọn để sau đó lấy kết quả xét tuyển hoặc thi tuyển vào các trường đại học, và cũng để giảm bớt thời lượng học đại học sau này.
Trung học chuyên nghiệp (trung học nghề) được gộp chung và đưa thành giai đoạn đầu (1.5 năm) của Cao đẳng. Học sinh học xong lớp 9 (xong phổ thông) có thể phân luồng học Cao đẳng luôn thay cho hướng học Dự bị đại học. Học xong giai đoạn đầu 1.5 năm của Cao đẳng (trung cấp trước đây) được nhận bằng Cao đẳng (Diploma) và có thể đi làm sớm, học thêm giai đoạn 2 của Cao đẳng (1.5 năm) nhận bằng Cao đẳng Nâng cao (Higher Diploma). Có bằng Cao đẳng Nâng cao có thể học tiếp liên thông đại học (2 năm) nếu muốn hoàn thiện học vấn.
"Đây là mô hình áp dụng ở nhiều nước. Hiện nay Singapore hàng năm đều sang Việt Nam tuyển học sinh học hết lớp 9 sang Singapore học Polytechnic (Cao đẳng) là theo mô hình này. Nếu hiện nay xong lớp 12 mới vào đại học, trượt đại học mới vào cao đẳng thì theo mô hình mới "1111", sau 9 năm có nhánh rẽ cao đẳng", ông Tùng cho hay.
Ông lý giải, việc giảm một năm học đại học nhờ đã có kiến thức trong 2 năm học dự bị đại học. Với sinh viên có bằng cao đẳng bậc cao, thời gian học liên thông đại học là 2 năm bổ sung. Việc đào tạo thạc sỹ, tiến sĩ không có gì thay đổi.
Liên thông các cấp độ học và các chương trình học được thực hiện theo hình thức “chuyển đổi tín chỉ”,tức là chuyển đổi một số nội dung đã học để bớt đi một vài môn và thời gian học khi chuyển sang chương trình học cao hơn hoặc chương trình khác. Với quan niệm liên thông này, việc liên thông được tiến hành tự do, mềm dẻo giữa các ngành và các cấp học.
Hệ thống trường học sẽ quy hoạch lại để chỉ còn trường Tiểu học, trường Trung học, trường cao đẳng và trường đại học (không tính các trung tâm dạy nghể ngắn hạn). Chương trình học phổ thông được thiết kế lại thành hệ 9 năm. Việc học dự bị đại học được thực hiện tại trường trung học. Với kiến trúc giáo dục hiện tại, sẽ gộp trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông thành trường Trung học, gộp trường Trung cấp vào trường Cao đẳng.
"Kiến trúc mới "1 tiểu - 1 trung - 1 cao - 1 đại" đáp ứng được cả 5 mục tiêu nêu trên. Bộ Giáo dục sẽ quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông trở xuống. Bộ Đại học quản lý đào tạo sau phổ thông (cao đẳng – đại học)", ông Tùng nhấn mạnh.
Như vậy, với cấu trúc giáo dục mới, tuổi để có bằng phổ thông là 15 (trước đây là 18), tuổi có bằng Cao đẳng/Cao đẳng Nâng cao là 17-18 (trước đây là 21), tuổi có bằng đại học là 20-21 (trước đây là 22-23). Thanh niên sẽ vào đời sớm hơn, phù hợp với tiêu chí sinh học giới trẻ hiện nay. Việc giảm thời gian học ngoài cái lợi là giảm chi phí xã hội còn tăng được thời gian cống hiến của cá nhân, và đất nước có thêm nguồn lao động trẻ.
  
 
Ngoài kiến nghị đổi mới cấu trúc, kiến trúc giáo dục, hiệu trưởng ĐH FPT cũng cho rằng đã đến lúc nước ta xóa vùng trũng tiếng Anh và thực hiện bình dân học vụ 2.0. Hiệu ứng “Vùng trũng tiếng Anh” chính là rào cản lớn trong hội nhập quốc tế, chuyển giao công nghệ, xuất, nhập khẩu giáo dục của Việt nam, là một thước đo thể hiện mức độ yếu kém của nguồn nhân lực Việt. Chính vì vậy cần thực hiện bình dân học vụ, xem đây là nhiệm vụ giáo dục phổ thông.
"Để đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục chắc chắn phải đưa công nghệ thông tin vào hệ thống giáo dục, đưa một cách cơ bản, toàn diện, từ việc quản lý đào tạo, phương pháp đào tạo đến tài nguyên phục vụ đào tạo, khảo thí", ông Tùng nói và bày tỏ, ông hi vọng những đổi mới lớn lao sẽ diễn trong giáo dục đào tạo thời gian tới, chứ không chỉ đơn thuần là các thay đổi mang tính xử lý tình huống.
Hiệu trưởng ĐH FPT cũng mượn lời một thi sĩ đời Tống để nêu quan điểm: "Trên đời có 3 điều đáng tiếc nhất: những bức danh họa bị mất giá trị vì bị những kẻ phàm phu tục tử tán thưởng; những cánh trà ngon bị hao phí quá nhiều bởi những bàn tay bất tài dày vò, và những thanh niên ưu tú bị hư hỏng vì một hệ thống giáo dục sai lầm".
Hoàng Thùy

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Đại sử ký tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông


Biên niên các sự kiện chính liên quan đến tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ thế kỷ 19 đến nay.


Thời gian
Sự kiện
…..
…. (tiếp tục ̉ sung)
1816
 
Hoàng đế Gia Long Triều Nguyễn tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa sau khi triều đại này thành lập năm 1802. 
1835
Vua Minh Mạng phái một đoàn thám hiểm tới Hoàng Sa để đánh dấu chủ quyền.
1836
Vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa tới các đảo Hoàng Sa để ghi lại lộ trình.
1867
Năm Tự Đức thứ 20, nhà vua tôn vinh các thủy binh đã tử vong trong quá trình ra các đảo.
1884
Nhà Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước chính thức biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp.
3/1909
Chính quyền Quảng Đông Trung Quốc đã cử một đội khảo sát và tháng 6/1909 đã cử Đô Đốc Lý Chuẩn tới Hoàng Sa.
1930
Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa của An Nam, và chủ quyền đối với Trường Sa cho Pháp.
1933
Pháp tuyên bố chính thức về việc chiếm cứ một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó bao gồm đảo Trường Sa, Ba Bình, Thị Tứ và Loại Ta.
1938
Pháp thiết lập sự hiện diện thường xuyên ở Hoàng Sa. Một phân đội cảnh sát người Việt đã được gửi đến đồn trú thường xuyên ở đây.
1939
Sau khi chiếm hầu hết các tỉnh ven biển Trung Quốc và đảo Hải Nam, Nhật Bản đã đổ bộ lên Trường Sa. Nhật Bản tuyên bố chủ quyền chính thức ở quần đảo Hoàng Sa và coi đây là một vùng của đế chế Nhật Bản.
1940
Nhật đã xây dựng các căn cứ tàu ngầm trên đảo Ba Bình và Trường Sa, và một đường bay trên Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa).
1945
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật đã rút khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đặt các đảo vào tình trạng ‘không có người ở’ một lần nữa.
1946
Pháp gửi đoàn thám sát lại Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi nhắc lại yêu sách của của An Nam (Việt Nam) đối với Hoàng Sa và của Pháp đối với Trường Sa, nhưng không lưu lại quân đồn trú. Cùng thời gian này, Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch cũng gửi các đoàn khảo sát đến hai quần đảo, và đã đánh dấu chủ quyền và thành lập sự hiện diện trên đảo Phú Lâm ( ở phía Đông của quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (Trường Sa).
07/1/1947
Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chính phủ Trung Quốc đã lấy lại các đảo Hoàng Sa và khôi phục lại chủ quyền của họ trên các đảo này.
1948
Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ban bố bản đồ với “Đường Lưỡi Bò” bao gần hết Biển Đông.
1949
Phe Cộng sản thắng ở Trung Quốc lục địa, thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc chạy sang Đài Loan, tàn quân bị rượt đuổi từ Hải Nam, nên buộc phải rút quân ở Phú Lâm (Hoàng Sa) vào tháng 4 năm 1950 và Ba Bình (Trường Sa) vào tháng 5 năm 1950.
15/8/1951
Trung Quốc nêu lập trường về vấn đề hải đảo của mình thông qua ‘Tuyên bố về Dự thảo Hiệp ước Hòa Bình với Nhật Bản và Hội nghị San Francisco của Mỹ và Anh’ của Thủ tướng Chu Ân Lai: ‘Quần đảo Tây Sa và Nam Sa, giống như Đông Sa và Trung Sa, luôn thuộc lãnh thổ Trung Quốc.’
6/9/1951
Đại diện của Việt Nam Quốc gia dự hội nghị San Fransisco. Trong phát biểu tại Hội nghị, đoàn Việt Nam khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1951
Nhật Bản ký kết Hiệp ước Hòa bình với Đồng minh, theo đó Nhật chính thức đồng ý từ bỏ các quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với một số vùng lãnh thổ, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, tuy nhiên hiệp ước không nêu ai sẽ được nhượng lại các quần đảo này.
1952
Hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật đã được ký kết tại Đài Loan giữa Đài Loan và Nhật Bản trong đó có nội dung Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3/1956
Một người Philippin là Thomas Cloma cùng những người đồng hành đổ bộ lên một số đảo của Trường Sa và đã yêu sách chiếm hữu 33 đảo và bãi trong một vùng biển rộng 65000 hải lý vuông, và đặt tên vùng này là Kalayaan (tiếng Anh là Freedomland).
1956
Khi Pháp rút khỏi Đông Dương Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm đưa quân ra thay  thế quân Pháp trên các đảo thuộc nhóm phía Tây của quần đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đảo chính của quần đảo Trường Sa đặt các cột mốc và kéo cờ của Việt Nam Cộng Hòa.
14/9/1958
Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng về tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý.
1971
Đài Loan quay lại Trường Sa và thiết lập sự có mặt liên tục trên đảo Ba Bình. Philippine tiến hành chiếm đóng một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
1971
Sau khi Đài Loan bắn vào một tàu đánh cá của Philippines, Philippines đòi Đài Loan rút khỏi đảo Ba Bình và cho quân chiếm đóng các đảo Vĩnh Viễn, Song Tử Đông, Loại Tá và Thị Tứ.
1971
Philippines ra tuyên bố chính thức yêu sách 53 đảo, theo đó, Philippines coi những đảo này là vô chủ, và họ có thể tự do chiếm hữu theo các hình thức thụ đắc lãnh thổ phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế là chiếm đóng và quản lý hiệu quả.
1973
Việt Nam Cộng Hòa sát nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
15-20/1/1974
Trung Quốc dùng không quân và hải quân đánh chiếm nhóm phía Tây của quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng. Kể từ đây, Trung Quốc chiếm trọn Hoàng Sa.
1974
Tại hội nghị Luật biển lần thứ 3, kỳ 2 tại Caracas, đại biểu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa tố cáo Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực, và khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam
14/3/1975
Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã sách trắng về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lên án mạnh mẽ Trung Quốc dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo.
1975
Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tiếp quản Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tuyên bố giành cho mình quyền bảo vệ chủ quyền đó.
11/11/1975
Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
02/7/1976
Nước CHXHCN Việt Nam chính thức ra đời và đã kế thừa yêu sách chủ quyền của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và thực tế đã tiếp tục kiểm soát Trường Sa.
1976
Việt Nam công bố bản đồ của nước Việt Nam thống nhất, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
12/ 5/ 1977
Việt Nam ra Tuyên bố thứ nhất về đường cơ sở để xác lập vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
1978
Philippines ban hành Nghị định 1599 của Tổng thống trong đó có sử dụng tên bằng tiếng Philippines Kalayaan để gọi quần đảo Trường Sa và khẳng định quần đảo Trường Sa về mặt pháp lý không thuộc bất kỳ quốc gia nào, nhưng do yếu tố kế cận, tầm quan trọng sống còn về an ninh, nhu cầu thiết yếu, sự chiếm đóng và kiểm soát hữu hiệu nên nay Philippines đã thiết lập chủ quyền hợp pháp với quần đảo này.
17/2/1979
Bắt đầu chiến tranh biên giới Trung-Việt
3/1979
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt – Trung, trong đó có điểm 9 tố cáo Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào ngày 19 và 20 tháng 1 năm 1974.
30/7/1979
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã công bố sách trắng xuyên tạc một số tài liệu có liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chứng minh rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo này.
28/9/1979
Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giới thiệu thêm 19 tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo.
1979
Malaysia xuất bản bản đồ vùng thềm lục địa, trong đó bao gồm 3 đảo của quần đảo Trường Sa.
Anh thay mặt cho Bruney ra tuyên bố phản đối việc Malaysia đưa đảo Louisa vào bản đồ thềm lục địa.
1980
Trung Quốc công bố sách trắng lần thứ hai tuyên bố chủ quyền với quần đảo Tây Sa và Nam Sa, trong đó và thay đổi lập luận cho cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam chỉ là những đảo ven bờ của Việt Nam, không phải là Tây Sa và Nam Sa của Trung Quốc.
7/1980
Tại kỳ họp lần thứ 26 Hội Địa chất quốc tế ở Paris đoàn đại biểu Trung Quốc  báo cáo và cho lưu hành tài liệu địa chất về các bể dầu khí trong đó có đoạn nói quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phần kéo dài của lục địa Trung Quốc.
12/11/1982
Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải.
1982
Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Trung quốc Dương Đắc Chí thị sát Hoàng Sa và Trường Sa.
12/1982
Việt Nam ban hành quyết định thành lập Trường Sa và Hoàng Sa là hai huyện đảo riêng biệt trực thuộc tỉnh Phú Khánh và Quảng Nam – Đà Nẵng.
1982
Đài Loan công khai quyết định đặt quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền tài phán của mình. Đồng thời, Chính quyền thành phố Cao Hùng thông qua kế hoạch 3 năm xây dựng các cảng và định cư tại đảo Ba Đình.
1982
Ký kết Công ước của LHQ về luật biển, đã được ký kết được coi là một bản Hiến pháp quốc tế về biển, có bởi nội dung đồ sộ và toàn diện, bao gồm phản ánh qua 320 điều, 17 phần và 9 phụ lục và chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994
1/1983
Tại hội nghị lần thứ hai về Hàng không khu vực châu Á- Thái Bình Dương, Trung Quốc đưa ra hai tấm bản đồ vẽ đường biên giới trên biển bao quanh gần hết Biển Đông.

4/1983
Ủy ban địa danh của Trung Quốc đã đặt tên cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông và đưa ra yêu sách đổi tên tiếng Anh của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành Tây Sa và Nam Sa.
1983
Malaysia chiếm đóng và chính thức tuyên bố chủ quyền đối với đảo Hoa Lau của quần đảo Trường Sa. Tuyên bố này nói rằng đảo Hoa Lau từ lâu đã là một bộ phận của lãnh thổ Malaysia.
6/1984
Hội nghị lần thứ 2 của Quốc vụ viện Trung Quốc khóa 6 đã phê chuẩn việc thành lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) của Việt Nam) đều thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc.
4/1985
Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam đã thăm quần đảo Trường Sa.
1987
Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang tiếp tục có chuyến thị sát Hoàng Sa
1987
Bruney xuất bản một bản đồ để xác định ranh giới của vùng đánh cá và thềm lục địa trong đó có đảo Louisa thuộc quần đảo Trường Sa.
12/1987
Malaysia chiếm đóng thêm hai đảo là Kỳ Vân và Kiệu Ngựa thuộc quần đảo Trường Sa.
1988
Thứ trưởng Bộ ngoại giao Malaysia ra tuyên bố rằng các đảo Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa và Louisa nằm trên thềm lục địa của Malaysia nên thuộc Malaysia.
14/3/1988
Trung Quốc đã đánh chìm 2 tàu lớn của hải quân Việt Nam, bắn hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Xubi.
3/4/1988
Tỉnh Phú Khánh và Bộ Tư Lệnh Hải Quân thay mặt cả nước đã làm lễ truy điệu các chiến sĩ hải quân đã hy sinh trong sự kiện ngày 14/3/1988.
3/1/1989
Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các đảo và bãi đá đã chiếm được của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
28/4/1989
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số “bãi Vạn An và bãi Nhã thuộc quần đảo Nam Sa” ( cụm KT – KH – DV Vũng Tàu – Côn Đảo của Việt Nam.)
1990
Tại Hội nghị Thành Đô, lãnh đạo hai nước Việt-Trung đã quyết định bình thường hoá quan hệ hai nước sau hơn 10 năm biến cố.
1990
Phát biểu trong chuyến thăm Xin-ga-po và Phi-líp-pin, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng lần đầu tiên chính thức đề xuất chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác phát triển quần đảo Nam Sa (Trường Sa), thông qua hiệp thương hữu nghị giải quyết vấn đề đảo Nam Sa vào lúc thích hợp”
25/2/1992
Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo  ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).
8/5/1992
Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone của Mỹ, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí một lô 225.255 km2 trong khu vực Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc 21(Vanguard Bank) nằm trên-được coi là  thềm lục địa của Việt Nam, nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa, cách đảo Hải nam Trung Quốc hơn 600 dặm về phía nam.
16/5/1992
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản đối việc ký kết trên vì khu vực này nằm trong thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính), yêu cầubuộc công ty Crestone này phải ngừng lại ngay các hoạt động thăm dò tại đây.
22/7/1992
ASEAN ra Tuyên bố ASEAN về Biển Đông, kêu gọi các bên giải quyết bất đồng về chủ quyền và tài phán thông qua các biện pháp hòa bình
7/1992
Việt Nam  tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC)
9/1992
Trung Quốc khoan thăm dò tìm dầu ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ thuộc phía Việt Nam.
1993
Brunei ra Tuyên bố về ranh giới thềm lục địa có một phần liên quan đến vùng biển của quần đảo Trường Sa nhưng không yêu sách chủ quyền đối với bất kỳ một đảo, đá, bãi nào của quần đảo.
5/1993
Tàu Trung Quốc cùng công ty BP tiến hành thăm dò khai thác ở vùng biển thuộc Việt Nam.
12/1993
Việt Nam yêu cầu công ty Mỹ Crestone huỷ bỏ việc thăm dò khai thác dầu ở vùng biển thuộc Việt Nam
4/1994
Việt Nam ký hợp đồng với công ty dầu khí Mobil oil của Mỹ thăm dò khai thác dầu khí ở khu vực Thanh Long
12/5/1994
Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối Việt Nam cho phép công ty dầu khí Mobil-oil thăm dò khai thác ở khu vực Thanh Long là vùng biển phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc.
8/1994
Công ty Crestone cùng với công ty Trung Quốc khai thác bãi Vạn An Bắc 21 (lô 133, 134, 135). Trung Quốc đề nghị chia phần cho phía Việt Nam, cho rằng chủ quyền thuộc về Trung Quốc. TàuThuyền có  trang bị súng của Việt Nam buộc tàu khai thác Trung Quốc rời khỏi giếng dầu khỏi địa phận Việt Nam
1995
Trung Quốc xây dựng công trình trên dải ngầm Vành Khăn, căng thẳng Trung-Phi
7/1995
Việt Nam gia nhập ASEAN
8/1995
Trung Quốc và Philippin ký kết bộ quy tắc ứng xử [code of conduct] gồm 8 nguyên tắc với mục đích tránh những sự vụ tiếp theo trên Biển Đông và tăng cường hợp tác trên biển.
19/10/1995
Trung Quốc phản đối Việt Nam thăm dò địa chấn trong Vịnh Bắc Bộ.
15/12/1995
Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-02 vào Vịnh Bắc Bộ, cách đường trung tuyến 5-6 hải lý về phía Việt nam.
10/3/1996
Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-06 hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ, vào sâu trong vùng biển của Việt nam 3 hải lý.
10/4/1996
PetroVietnam và công ty Conoco (Mỹ) ký hợp đồng thuê khai thác, đòi công ty đã ký hợp đồng khai thác với công ty Trung Quốc ngừng hoạt động.
15/5/1996
Uỷ ban thường vụ quốc hội Trung Quốc khoá VIII phê chuẩn công ước luật biển 1982. Cùng ngày, chính phủ Trung Quốc tuyên bố một phần đường cơ sở của Trung quốc lục địa và đường cơ sở thẳng của quần đảo Hoàng Sa.
1996
Đụng độ giữa tàu chiến Trung Quốc và tàu của hải quân Phi-líp-pin ở Trường Sa và gần bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham), hải quân Philippin đã bắt giữ tàu cá và tàu nghiên cứu hải dương của Trung Quốc, bắt giữ ngư dân và “nhà nghiên cứu” Trung Quốc, bắn súng cảnh cáo và bắn hạ các cột mốc lãnh thổ do Trung Quốc dựng lên.
12/1997
Việt Nam phản đối tàu khai thác số 8 và hai tàu hộ vệ 615 và 616 của Trung Quốc thăm dò khảo sát dầu khí cách phía Tây bãi Phúc Tần 15 hải lý thuộc khu vực DK-1, bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu hải quân Việt Nam phải áp tải buộc các tàu này ra ngoài.
6/4/1998
Tàu Hải dương 4 của Trung Quốc tiến hành thăm dò ở phía Nam Hoàng Sa cách đường cơ sở của Việt Nam 155 hải lý.
4/1998
Hai tàu chiến của Trung Quốc số 772 và 697 đi sâu vào vùng biển của Việt nam ở Vịnh Bắc Bộ cản trở hoạt động của tàu khảo sát địa chấn GECOECHO của Việt Nam.
9/1998
Việt Nam phản đối sau khi Trung Quốc tuyên bố công ty Crestone và Trung Quốc tiếp tục thăm dò ở các đảo Trường Sa.
10/1998
Căng thẳng Trung-Phi tái diễn liên quan đến việc Trung Quốc củng cố công trình trên dải Vành Khăn
1998
Philippin và Mỹ ký Hiệp định về thăm viếng quân sự (Visiting Forces Agreement).
1998
Cả Trung Quốc và Đài Loan đều công bố Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Theo đó, một lần nữa chính thức thể hiện quan điểm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng mà họ thường gọi là “vùng nước phụ cận”.
Từ năm 1999
đến nay
Trung Quốc hàng năm đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trong phạm vi từ vĩ tuyến 12 độ Bắc trở lên trong thời gian 03 tháng.
12/1999
Ký kết Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
12/2000
Việt Nam và Trung Quốc ra “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa hai nước” và  ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ
4/11/2002
ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) trong khuôn khổ của cuộc họp cấp cao ASEAN 8 tại Phnompenh (Căm-pu-chia)
5/11/2002
Ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Trung Quốc và ASEAN, tại Phnom Penh.
2003
Trung Quốc tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC)
5/2003
Tranh chấp giữa Ma-lai-xi-a và Bru-nêi ở ngoài khơi Bắc Borneo.
9/2004
Trung Quốc thuyết phục Philíppin để hai công ty dầu lửa quốc gia CNOOC và PNOC ký Thỏa thuận thăm dò địa chấn Trường Sa trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Philíppin. Việt Nam phản đối Thỏa thuận này.
14/3/2005
Ký kết “Thoả thuận ba bên về tiến hành thăm dò địa chấn biển chung trong khu vực xác định tại Biển Đông” giữa ba Công ty dầu khí quốc gia (CNOOC của Trung Quốc, PetroVietnam và PNOC của Philíppin). Thời hạn của Thoả thuận là ba năm.
20/10/2007
Công ty ARCO của Mỹ và công ty dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc (CNOOC) ký hợp đồng khai thác dầu khí tại khu vực Tây Nam đảo Hải Nam 100 km, trong đó có một phần diện tích lấn sang vùng biển của Việt Nam thuộc lô 111 và 113.
Cuối năm 2007
Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý 03 quần đảo trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này dẫn đến các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ở Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức phản đối việc làm của Trung quốc thông qua người phát ngôn.
2/2/2008
Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển đã bay đi thăm đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam và Philippin phản đối
20/7/2008
Báo South China Morning Post (Hồng Kông) đưa tin giới ngoại giao Trung Quốc tại Mỹ đã liên tiếp phản đối ban lãnh đạo của công ty ExxonMobil, đồng thời đe dọa rằng công việc kinh doanh của công ty này tại Trung Quốc Đại Lục có thể gặp trở ngại trong tương lai nếu ExxonMobil hợp tác với PetroVietnam trong việc thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực ngoài khơi miền Trung và miền Nam Việt Nam.
8/2008
Phó Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak ra đảo Hoa Lau để thị sát tình hình và tái khẳng định chủ quyền của Malaysia đối với đảo này và 4 đảo khác.
2008
Những bức ảnh trên vệ tinh thương mại khẳng định rằng Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ tàu ngầm lớn ở Tam Á, thuộc đảo Hải Nam.
24/11/2008
Theo hãng tin Bloomberg, Tập đoàn dầu khí Trung Quốc CNOOC Ltd công bố dự án gần 30 tỷ đôla để khoan tìm dầu khí trong các khu vực nước sâu tại Biển Đông.  
20/3/2009
Công ty British Petroleum (BP) của Anh tuyên bố rút khỏi dự án dầu khí ở lô số 05.2 và 05.3 thuộc bồn trũng Côn Sơn ngoài khơi Việt Nam.
 5/3/09
Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi đi thăm và kiểm tra đảo Hoa Lau mà Malaysia gọi là đảo Layang Layang thuộc quần đảo Trường Sa
3/2009
Va chạm giữa giữa tàu tuần tra USNS Impeccable của Mỹ và năm tàu treo cờ Trung Quốc cách đảo Hải Nam 75 dặm.
10/3/2009
Tổng thống Phi-líp-pin Arroyo đã ký ban hành Luật Cộng hòa số 9522 về đường cơ sở mới (đường cơ sở cũ năm 1968), qua đó quản lý quần đảo Trường Sa và bãi cạn Hoàng Nham theo “quy chế đảo”. Trung quốc, Đài loan, Việt nam phản đối.
6/5/2009
Malaysia và Việt Nam nộp bản báo cáo chung đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực phía nam Biển Đông lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc(CLCS).
Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bò” . Việt Nam phản đối công hàm của Trung Quốc.
7/5/2009
Việt Nam nộp báo cáo đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực phía bắc nộp lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS).
Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bò” . Việt nam phản đối công hàm của Trung Quốc.
4/8/2009
Philippin chính thức gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối báo cáo về thềm lục địa mở rộng của Việt nam khu vực phía bắc và báo cáo chung Việt Nam, Malaysia khu vực phía nam.
Việt Nam và Malaysia phản đối công hàm của Philippin.
14/8/2009
Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Lưu Kiến Siêu đã tuyên bố rằng, Trung Quốc phản đối những kế hoạch khai thác dầu khí của Philippines ở Bãi Cỏ Rong trên Biển Đông và cho rằng hành động này là vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Bãi Cỏ Rong, thuộc quần đảo Trường Sa, nằm cách đảo Palawan khoảng 60 dặm (100 km) về phía tây.
10/2009
Dưới sức ép của Trung Quốc, tranh chấp Biển Đông không được thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 12 tại Cha-am, Thái Lan.
…..
…. (tiếp tục ̉ sung)