Đôi nét về Nguyễn Bảo Hoàng
Tạo dựng nên những thành công của IDGVV là một doanh nhân trẻ, một Việt kiều đến từ nước Mỹ. Với 3 bằng đại học thuộc 3 lĩnh vực khác nhau, anh được Tổng giám đốc Tập đoàn IDG toàn cầu, ông Patrick McGovern đánh giá cao về năng lực, trao cho trọng trách Tổng giám đốc công ty IDG Việt Nam. Trước khi gia nhập Qũy đầu tư IDG (IDG Ventures), anh đã từng là giám đốc điều hành cho công ty VITC tại khu vực châu Á, một công ty viễn thông Mỹ chuyên về IP và công nghệ. Trong suốt thời gian anh làm việc tại VITC, công ty đã tăng trưởng từ một công ty mới được thành lập lên một công ty có doanh thu đạt hơn 30 triệu đô la Mỹ hàng năm. Với tấm bằng đỏ của trường Đại học danh tiếng nhất nước Mỹ - Đại học Harvard, anh là thế hệ Việt kiều thứ 2 về đóng góp, làm giàu cho quê hương. Anh chính là một “Ẩn số đến từ Harvard”.
Nguyễn Bảo Hoàng
Tổng Giám đốc công ty IDG Ventures Việt Nam
Toà tháp B Vincomcity, tầng 15, phòng 2+3
191 phố Bà Triệu.
Website : http://www.idgvv.com.vn
Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011
Người tìm kiếm ông chủ “Google” Việt Nam
“Người Việt mình có thể thành lập những Cty chẳng thua kém gì Google hay Yahoo” - Nguyễn Bảo Hoàng, Tổng Giám đốc điều hành Quỹ Đầu tư mạo hiểm VN (IDGVV) cho biết sau buổi nói chuyện với sinh viên Đại học Quản trị kinh doanh Hà Nội.
Anh nói thêm: “Trong số 80 sinh viên mình gặp gỡ hôm nay, hy vọng có một người rồi sẽ trở thành người đứng đầu Cty như Google hay Yahoo”.
Các cuộc nói chuyện là một phần trong lịch làm việc của Nguyễn Bảo Hoàng bởi theo anh, công việc đầu tư mạo hiểm cũng giống như người đi câu cá và phải chủ động đi tìm cá.
Anh chủ động đi nói chuyện với các doanh nhân, sinh viên và làm bùng lên khát vọng kinh doanh trong họ.
Về nước đầu tư mạo hiểm
IDG Capital Venture Việt Nam (IDGVV) là quỹ đầu tư mạo hiểm do Nguyễn Bảo Hoàng, Việt kiều Mỹ làm Tổng Giám đốc điều hành từ năm 2003 đến nay. Thực tình, anh không thích dùng từ “mạo hiểm” lắm.
Theo Hoàng, gọi là đầu tư triển vọng thì đúng hơn bởi Quỹ hỗ trợ cho những Cty mới, có nhiều tiềm năng phát triển. Tất nhiên, đối với việc đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam, khả năng mất vốn và kinh doanh có lãi đều có thể xảy ra.
“Vốn không hạn chế mà điều quan trọng là doanh nghiệp xin cấp vốn phải chứng tỏ được tiềm năng của mình” - Nguyễn Bảo Hoàng cho biết. Trong số hơn 2.000 doanh nghiệp xin cấp vốn đầu tư, chỉ có 13 doanh nghiệp được lựa chọn. Trong năm nay, 2 dự án do IDGVV đầu tư đã được một tập đoàn nước ngoài ngỏ ý mua. Một Cty khác sẽ lên sàn chứng khoán New York.
Trong các yếu tố đánh giá dự án, nhân tố con người chiếm tới 80 - 90 %. IDGVV đã không nhầm khi cấp vốn đầu tư cho dự án Vina Game. Ban đầu, Vina Game chỉ có 5 nhân viên, vậy mà 5 tháng sau đã phát triển đến chóng mặt với hơn 500 người.
Lĩnh vực đầu tư của IDGVV khá rộng từ công nghệ thông tin, khoa học, y tế, truyền hình, báo điện tử... Hiện nay, Quỹ đang rất kỳ vọng vào dự án của một Cty quảng cáo trực tuyến mà IDG cấp vốn. Mục tiêu của Cty này là tăng doanh thu quảng cáo trực tuyến gấp 10 lần trong vòng 3 - 4 năm tới trên các báo điện tử Việt Nam.
Con đường tìm về quê mẹ của Nguyễn Bảo Hoàng cũng như biết bao thanh niên Việt kiều khác: Từ lạ lẫm đến yêu thương và gắn bó. Năm 1995, sau khi vừa tốt nghiệp khoa Văn hạng xuất sắc tại Đại học Harvard, Nguyễn Bảo Hoàng lần đầu tiên trở về Việt Nam thực hiện dự án làm sách hướng dẫn du lịch Đông Nam Á mang tên Let’s Go mặc dù chưa biết gì nhiều về Việt Nam. Đây là cuốn cẩm nang du lịch đầu tiên của Let’s Go ở châu Á.
Trở về Mỹ, anh tiếp tục học tại Đại học Y Northwestern, đi theo con đường của người anh trai và chị gái, lúc đó đã trở thành bác sỹ. Trong thời gian đó, anh đồng thời theo học Thạc sỹ Quản trị kinh doanh tại Kellogg School of Management và tốt nghiệp hai trường cùng một lúc vào năm 2000.
Sau 2 năm làm việc tại một phòng khám đa khoa, thực hiện vài ca phẫu thuật, tiếng gọi kinh doanh đã vẫy gọi Hoàng, chàng bác sỹ tương lai rẽ bước.
Năm 2000, Nguyễn Bảo Hoàng quay lại Việt Nam để giúp một doanh nghiệp viễn thông Mỹ mở văn phòng đại diện tại Hà Nội. Anh trở thành Giám đốc điều hành cho Cty VITC tại khu vực châu Á - Cty viễn thông Mỹ chuyên về giao thức internet và công nghệ.
Trong suốt thời gian làm việc tại VITC, Hoàng đã góp sức biến Cty mới được thành lập, phát triển lớn mạnh và đạt doanh thu hơn 30 triệu USD hàng năm.
Trước khi làm việc cho VITC, Nguyễn Bảo Hoàng còn là cộng sự tại Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs tại New York, chuyên nghiên cứu về các Cty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và phát triển phần mềm.
Lần trở lại Việt Nam thứ ba năm 2003 với vai trò Tổng Giám đốc điều hành Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Việt Nam, anh đã gắn bó với Việt Nam và muốn góp sức mình vào sự phát triển của quê hương.
Anh sẽ còn ở lại Việt Nam ít nhất 6 năm nữa, bởi kế hoạch của IDG là sẽ giải ngân hết số vốn 100 triệu USD trong vòng 10 năm.
Ý tưởng kinh doanh là cuộc sống quanh ta
Là con út trong gia đình có 4 anh chị em, Nguyễn Bảo Hoàng cùng gia đình sang sống ở ngoại ô Washington từ năm 1975 khi mới 22 tháng tuổi.
Nếu có thể làm được gì cho quê hương, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều so với làm việc ở nơi khác. Tôi tin rằng, trong tương lai, Việt Nam không chỉ là nơi gia công công nghệ, mà còn là trung tâm của sự sáng tạo và đổi mới.
Ngay từ khi 8 - 9 tuổi, Hoàng được cha mẹ dành dụm 3 tháng lương để mua cho con một chiếc máy tính IBM, lúc đó là mơ ước của nhiều người.
Với chiếc máy tính đó, ngoài việc chơi game như bao đứa trẻ khác, Hoàng đã mày mò tìm hiểu các linh kiện của nó, học cách lập trình.
Khi thấy thông tin rao bán nhà của những người họ hàng xung quanh mình khá lộn xộn, Hoàng đã giúp họ đánh lại văn bản, trình bày sạch đẹp, lại có thêm những bức ảnh minh họa khá đẹp mắt, dễ nhận diện.
Kể từ đó, hầu hết những người buôn bán bất động sản trong vùng đều tới nhờ Hoàng làm giúp những tờ rơi. Số tiền thù lao mà họ trả đủ để Hoàng mua thêm 2 chiếc máy tính nữa.
Có thêm máy tính, Hoàng rủ thêm hai gười bạn cùng làm. Cuối tuần, mỗi người làm việc 3 tiếng là xong, thời gian còn lại rủ nhau chơi game.
Yêu thể thao và chơi giỏi thể thao, ngoài việc tham gia đội squash ở trường. Hoàng còn tham gia viết báo thể thao, làm việc cho đài phát thanh của trường.
Yêu âm nhạc, anh không những chơi tốt thể loại jazz, mà còn tập hợp thành một ban nhạc đi biểu diễn. Riêng việc lưu diễn khắp 40 trường đại học tại Boston đã đủ cho ban nhạc tiêu xài, giải trí.
Trong khi theo học tại trường y khoa, Hoàng đã cùng các bạn xây dựng nên S2S Medical Publishing chuyên xuất bản sách, các bài kiểm tra thử nghiệm và các tài liệu học tập cho các sinh viên y khoa và các bác sỹ nội trú.
Đó là những kinh nghiệm mà Hoàng đã tích lũy trong 4 năm học tại đây và anh cùng các bạn tập hợp thành sách như là một cuốn cẩm nang cho thế hệ đàn em. Số lượng sách bán được lên tới 650.000 cuốn.
Ngoài ra, Hoàng là một trong số những người sáng lập website http://www.medschool.com/ chuyên sâu vào việc phát triển một hệ thống nghiên cứu học tập từ xa cho các sinh viên y khoa và đã thu hút được hơn 25 triệu đô la vốn đầu tư mạo hiểm.
Khi học trong trường y, ngành học khó nhất, nhưng Hoàng vẫn luôn nghĩ tới ý tưởng kinh doanh từ những loại thuốc mà cô giáo giới thiệu. Do đó, anh quyết tâm theo học ngành quản trị kinh doanh để có thể tiếp cận và giải quyết những ý tưởng và dự án. Mặt khác, Hoàng có thể sử dụng những kiến thức về tài chính và đầu tư để suy nghĩ và giải quyết công việc một cách thấu đáo.
Trở về Việt Nam một mình nhưng Hoàng luôn cảm thấy gần gũi, thân thiết bởi sự yêu thương, đùm bọc của những người đồng nghiệp, những người hàng xóm.
“Người Việt mình có thể thành lập những Cty chẳng thua kém gì Google hay Yahoo” - Nguyễn Bảo Hoàng, Tổng Giám đốc điều hành Quỹ Đầu tư mạo hiểm VN (IDGVV) cho biết sau buổi nói chuyện với sinh viên Đại học Quản trị kinh doanh Hà Nội.
Anh nói thêm: “Trong số 80 sinh viên mình gặp gỡ hôm nay, hy vọng có một người rồi sẽ trở thành người đứng đầu Cty như Google hay Yahoo”.
Các cuộc nói chuyện là một phần trong lịch làm việc của Nguyễn Bảo Hoàng bởi theo anh, công việc đầu tư mạo hiểm cũng giống như người đi câu cá và phải chủ động đi tìm cá.
Anh chủ động đi nói chuyện với các doanh nhân, sinh viên và làm bùng lên khát vọng kinh doanh trong họ.
Về nước đầu tư mạo hiểm
IDG Capital Venture Việt Nam (IDGVV) là quỹ đầu tư mạo hiểm do Nguyễn Bảo Hoàng, Việt kiều Mỹ làm Tổng Giám đốc điều hành từ năm 2003 đến nay. Thực tình, anh không thích dùng từ “mạo hiểm” lắm.
Theo Hoàng, gọi là đầu tư triển vọng thì đúng hơn bởi Quỹ hỗ trợ cho những Cty mới, có nhiều tiềm năng phát triển. Tất nhiên, đối với việc đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam, khả năng mất vốn và kinh doanh có lãi đều có thể xảy ra.
“Vốn không hạn chế mà điều quan trọng là doanh nghiệp xin cấp vốn phải chứng tỏ được tiềm năng của mình” - Nguyễn Bảo Hoàng cho biết. Trong số hơn 2.000 doanh nghiệp xin cấp vốn đầu tư, chỉ có 13 doanh nghiệp được lựa chọn. Trong năm nay, 2 dự án do IDGVV đầu tư đã được một tập đoàn nước ngoài ngỏ ý mua. Một Cty khác sẽ lên sàn chứng khoán New York.
Trong các yếu tố đánh giá dự án, nhân tố con người chiếm tới 80 - 90 %. IDGVV đã không nhầm khi cấp vốn đầu tư cho dự án Vina Game. Ban đầu, Vina Game chỉ có 5 nhân viên, vậy mà 5 tháng sau đã phát triển đến chóng mặt với hơn 500 người.
Lĩnh vực đầu tư của IDGVV khá rộng từ công nghệ thông tin, khoa học, y tế, truyền hình, báo điện tử... Hiện nay, Quỹ đang rất kỳ vọng vào dự án của một Cty quảng cáo trực tuyến mà IDG cấp vốn. Mục tiêu của Cty này là tăng doanh thu quảng cáo trực tuyến gấp 10 lần trong vòng 3 - 4 năm tới trên các báo điện tử Việt Nam.
Con đường tìm về quê mẹ của Nguyễn Bảo Hoàng cũng như biết bao thanh niên Việt kiều khác: Từ lạ lẫm đến yêu thương và gắn bó. Năm 1995, sau khi vừa tốt nghiệp khoa Văn hạng xuất sắc tại Đại học Harvard, Nguyễn Bảo Hoàng lần đầu tiên trở về Việt Nam thực hiện dự án làm sách hướng dẫn du lịch Đông Nam Á mang tên Let’s Go mặc dù chưa biết gì nhiều về Việt Nam. Đây là cuốn cẩm nang du lịch đầu tiên của Let’s Go ở châu Á.
Trở về Mỹ, anh tiếp tục học tại Đại học Y Northwestern, đi theo con đường của người anh trai và chị gái, lúc đó đã trở thành bác sỹ. Trong thời gian đó, anh đồng thời theo học Thạc sỹ Quản trị kinh doanh tại Kellogg School of Management và tốt nghiệp hai trường cùng một lúc vào năm 2000.
Sau 2 năm làm việc tại một phòng khám đa khoa, thực hiện vài ca phẫu thuật, tiếng gọi kinh doanh đã vẫy gọi Hoàng, chàng bác sỹ tương lai rẽ bước.
Năm 2000, Nguyễn Bảo Hoàng quay lại Việt Nam để giúp một doanh nghiệp viễn thông Mỹ mở văn phòng đại diện tại Hà Nội. Anh trở thành Giám đốc điều hành cho Cty VITC tại khu vực châu Á - Cty viễn thông Mỹ chuyên về giao thức internet và công nghệ.
Trong suốt thời gian làm việc tại VITC, Hoàng đã góp sức biến Cty mới được thành lập, phát triển lớn mạnh và đạt doanh thu hơn 30 triệu USD hàng năm.
Trước khi làm việc cho VITC, Nguyễn Bảo Hoàng còn là cộng sự tại Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs tại New York, chuyên nghiên cứu về các Cty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và phát triển phần mềm.
Lần trở lại Việt Nam thứ ba năm 2003 với vai trò Tổng Giám đốc điều hành Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Việt Nam, anh đã gắn bó với Việt Nam và muốn góp sức mình vào sự phát triển của quê hương.
Anh sẽ còn ở lại Việt Nam ít nhất 6 năm nữa, bởi kế hoạch của IDG là sẽ giải ngân hết số vốn 100 triệu USD trong vòng 10 năm.
Ý tưởng kinh doanh là cuộc sống quanh ta
Là con út trong gia đình có 4 anh chị em, Nguyễn Bảo Hoàng cùng gia đình sang sống ở ngoại ô Washington từ năm 1975 khi mới 22 tháng tuổi.
Nếu có thể làm được gì cho quê hương, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều so với làm việc ở nơi khác. Tôi tin rằng, trong tương lai, Việt Nam không chỉ là nơi gia công công nghệ, mà còn là trung tâm của sự sáng tạo và đổi mới.
Ngay từ khi 8 - 9 tuổi, Hoàng được cha mẹ dành dụm 3 tháng lương để mua cho con một chiếc máy tính IBM, lúc đó là mơ ước của nhiều người.
Với chiếc máy tính đó, ngoài việc chơi game như bao đứa trẻ khác, Hoàng đã mày mò tìm hiểu các linh kiện của nó, học cách lập trình.
Khi thấy thông tin rao bán nhà của những người họ hàng xung quanh mình khá lộn xộn, Hoàng đã giúp họ đánh lại văn bản, trình bày sạch đẹp, lại có thêm những bức ảnh minh họa khá đẹp mắt, dễ nhận diện.
Kể từ đó, hầu hết những người buôn bán bất động sản trong vùng đều tới nhờ Hoàng làm giúp những tờ rơi. Số tiền thù lao mà họ trả đủ để Hoàng mua thêm 2 chiếc máy tính nữa.
Có thêm máy tính, Hoàng rủ thêm hai gười bạn cùng làm. Cuối tuần, mỗi người làm việc 3 tiếng là xong, thời gian còn lại rủ nhau chơi game.
Yêu thể thao và chơi giỏi thể thao, ngoài việc tham gia đội squash ở trường. Hoàng còn tham gia viết báo thể thao, làm việc cho đài phát thanh của trường.
Yêu âm nhạc, anh không những chơi tốt thể loại jazz, mà còn tập hợp thành một ban nhạc đi biểu diễn. Riêng việc lưu diễn khắp 40 trường đại học tại Boston đã đủ cho ban nhạc tiêu xài, giải trí.
Trong khi theo học tại trường y khoa, Hoàng đã cùng các bạn xây dựng nên S2S Medical Publishing chuyên xuất bản sách, các bài kiểm tra thử nghiệm và các tài liệu học tập cho các sinh viên y khoa và các bác sỹ nội trú.
Đó là những kinh nghiệm mà Hoàng đã tích lũy trong 4 năm học tại đây và anh cùng các bạn tập hợp thành sách như là một cuốn cẩm nang cho thế hệ đàn em. Số lượng sách bán được lên tới 650.000 cuốn.
Ngoài ra, Hoàng là một trong số những người sáng lập website http://www.medschool.com/ chuyên sâu vào việc phát triển một hệ thống nghiên cứu học tập từ xa cho các sinh viên y khoa và đã thu hút được hơn 25 triệu đô la vốn đầu tư mạo hiểm.
Khi học trong trường y, ngành học khó nhất, nhưng Hoàng vẫn luôn nghĩ tới ý tưởng kinh doanh từ những loại thuốc mà cô giáo giới thiệu. Do đó, anh quyết tâm theo học ngành quản trị kinh doanh để có thể tiếp cận và giải quyết những ý tưởng và dự án. Mặt khác, Hoàng có thể sử dụng những kiến thức về tài chính và đầu tư để suy nghĩ và giải quyết công việc một cách thấu đáo.
Trở về Việt Nam một mình nhưng Hoàng luôn cảm thấy gần gũi, thân thiết bởi sự yêu thương, đùm bọc của những người đồng nghiệp, những người hàng xóm.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và cuộc “đấu tố” giữa những người đồng đội
Sau khi một số cán bộ chỉ huy phản đối dữ dội và bỏ ra khỏi đêm văn công sau lễ hội “khao quân” mừng chiến thắng Điện Biên Phủ do cho tiết mục quan họ là suy đồi, Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh đã tổ chức tại nhà mình một buổi tranh luận để đi đến thống nhất.
>> Kỳ 1: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và đêm quan họ đầy bão táp
>> Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, "Anh bộ đội Cụ Hồ" tiêu biểu
>> Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, "Anh bộ đội Cụ Hồ" tiêu biểu
Ngay sau đêm văn nghệ đầy "bão táp” ấy, trước khi "hành quân" đến nhà tướng Nguyễn Chí Thanh, nhà thơ Hoàng Cầm đã phải động viên các liền anh liền chị: "Chiều nay, chúng ta phải chiến thắng. Mình hãy coi đây là một trận đánh quyết định. Nghệ thuật dân tộc phải thắng cái giáo điều, cái kiêu căng và cái tệ thiếu văn hóa của một số người có ngọc trong tay mà đập nát. Chúng mình chắc chắn có "pháo" lớn Nguyễn Chí Thanh yểm trợ". Và rồi những người đồng đội vừa kết thúc trận mạc trên chiến trường lại bắt đầu một cuộc "chiến đấu tư tưởng" mới.
![]() |
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và vợ là bà Nguyễn Thị Cúc trong kháng chiến |
Một lúc sau, gần trăm người đã có mặt. Hàng ghế đầu là ông Thái Dũng.
Trao đổi qua vài ý kiến với tôi, vẫn một giọng đanh thép, ông Nguyễn Chí Thanh nói với cả đội quan họ:
- Đừng ngại gì nhá! Bình tĩnh, hát thật hay vào!
Nói rồi ông đi ra, ngồi xuống cạnh ông Lê Quang Đạo, ông Võ Hồng Cương. Còn tôi cho người treo một lá cờ hội đình, để diễn viên phục trang rồi môi son má phấn. Sau 10 phút, sáu liền anh, sáu liền chị, với ba chục nhạc cụ dân tộc đàn tranh, sáo nhị cùng sóng đôi nam nữ bước ra sân. Các diễn viên xếp hàng dài chào khán giả. Tiếng vỗ tay hoan nghênh hình như có một nửa.
Ông Thanh đứng tại chỗ dõng dạc:
- Đấy nhé. Mời các đồng chí xem lại cho thật kỹ cái mà hôm qua, khá đông các đồng chí đả đảo. Còn thì chúng ta cứ kẹo bánh, thuốc lá và cứ tranh luận, phê bình. Hoàn toàn tự do. Rồi văn công được phép diễn hay không, sẽ tuỳ kết quả của cuộc tranh luận này.
Thế rồi, dưới lá cờ dân tộc, các cặp liền anh liền chị bắt đầu diễn, vượt xa cả yêu cầu. Hết 25 phút tình ca lưu luyến, "Người ơi người ở đừng về", các diễn viên lại dàn hàng chữ nhất, e ấp chào các vị tướng tá đầy kiêu hãnh. Gần một trăm khán giả đứng dậy, vỗ tay đến vài ba phút trong tiếng "hoan hô"! "Tuyệt vời"!.
Trong làn sấm vỗ tay ấy, tôi vẫn chăm chú nhìn ông Thái Dũng. Ông ấy cũng vỗ tay nhưng có vẻ không mặn mà.
Liền sau đấy, ông Thanh chạy lên bắt tay, khoác tay tôi cùng các diễn viên khác, đến một bàn dành riêng cho văn công. Một đồng chí cần vụ rót cà phê nóng đang bốc hơi, và ông cao giọng:
- Tôi yêu cầu tất cả... thẳng thắn phê bình và tranh luận. Đề nghị anh Hoàng Cầm, người đặt ra tiết mục này, phát biểu trước.
Tôi đứng lên, thấy anh Thanh tủm tỉm cười, nhìn tôi rất yêu mến, nên tôi càng vững tâm. Còn các diễn viên thì đầy thấp thỏm.
Nhà thơ cũng "bắn tỉa"
Tôi cứ thế nói, nhằm vào tư tưởng của anh chỉ huy quân sự có tài nhưng thấp về văn hoá mà lại kiêu căng: "Nếu đúng như ý nghĩ đồng chí Thái Dũng, các cụ ta ngày xưa và toàn thể loài người này không "chim chuột" nhau, thì chắc hẳn loài người sẽ không sinh sôi nảy nở và bây giờ đã không có chúng ta.
Chúng ta được có mặt trên cõi đời này, chính là nhờ tình yêu nam nữ mà tạo hoá đã ban cho. Tiếng hát quan họ là nghệ thuật của yêu thương. Thế mà các đồng chí tối qua cho là "chim chuột”.
Các đồng chí không biết rằng nghệ thuật hát ấy đã thành tục lệ chữa một nghịch lý rất khó hiểu: là trai gái hát ví nhau thì đưa tình trao duyên thế; nhưng theo luật của phong tục, lại phải tuyệt đối vâng lệ làng quan họ: là không được vượt quá ranh giới giữa tiếng hát và tình chăn gối. Ai, bất kể trai hay gái, mà bị phát hiện ra những trò trên thì lập tức bị khai trừ ra khỏi phường, hội. Cùng một phường, hội không được lấy nhau đã đành, có nơi còn nghiêm ngặt hơn là ngay cùng làng cũng không được lấy nhau. Có thể lấy người ở làng khác, và nếu thế, vợ hát một nơi, chồng ca một nẻo, mà đã hát thì phải diễn ra sắc thái, đa tình đằm thắm hơn cả đêm tân hôn, nhưng phải cấm kỵ ghen tuông. Hễ ghen mà sinh sự thì cũng bị khai trừ.
Ấy thế, quan họ nó rắc rối về mặt tình cảm như vậy, ai lấy tiếng hát làm lý tưởng say mê suốt đời thì mới trở thành người hát được nể phục”.
Tôi nói hết thì ông Thái Dũng cũng đứng dậy. Lúc đầu, ông nói nhỏ thôi.
“Trước hết, tôi thành thực xin lỗi các đồng chí, xin lỗi đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhất là xin lỗi anh Hoàng Cầm và đoàn văn công vì thái độ của anh em chúng tôi tối qua. Chúng tôi quá nóng nảy và hấp tấp. Nhất là tôi, từ 15 tuổi đã theo cách mạng, 17 tuổi đi đánh trận, cứ liên miên trận mạc, rồi kiểm điểm, rồi tập luyện, rồi chỉnh huấn, chỉnh quân, tôi chưa thấy một đoàn văn công nào hát những lời như thế bao giờ. Vả lại tôi chỉ quân sự đơn thuần, thấy công tác chính trị nó khó khăn, rắc rối lắm lên rất ngại. Quanh năm, tôi chỉ lo sao cho trận nào mình chỉ huy cũng phải thắng. Cấp dưới mà có anh nào lơ là, nhớ nhà, nhớ vợ con là tôi "chỉnh" ngay, có khi đuổi ra khỏi đơn vị. Vì thế, cái tính thẳng thắn, cứng nhắc ấy nó quen đi, nên tôi mới quát to lên lúc tối qua, thành ra có lỗi”.
Đến đây, anh Thái Dũng trở lại cách phát ngôn cao giọng, lấn át:
“Nhưng, còn về tư tưởng, tôi vẫn giữ nguyên những ý nghĩ của mình tối qua. Đúng nó là dân ca từ xưa, nhưng anh Hoàng Cầm cố tình đưa ra lúc này, khi mà Bác Hồ vừa nhắc nhở toàn quân, toàn dân rằng chiến thắng Điện Biên mới chỉ là bước đầu, chúng ta còn phải gian khổ chiến đấu cho đến khi thống nhất đất nước, thì cái màn hát đó chỉ làm giảm ý chí chiến đấu của quân đội.
Rõ ràng đây là sự tỏ tình thô lỗ, “yêu nhau cởi áo cho nhau” rồi con gái chờ con giai về đêm, nửa chăn nửa chiếu nửa giường để đó chờ ai. Thật là như xúi giục chuyện trai gái nhảm nhí, có phải là giảm ý chí chiến đấu của bộ đội không?
Tôi không dám quy lỗi này cho anh Hoàng Cầm, vì người đã viết thơ cổ vũ chiến đấu hay như thế thì không thể nào lại muốn làm cho bộ đội ta sa sút tinh thần. Nhưng hiện nay, kể cả sau Hội nghị Giơnevơ mà nếu ta có thắng về ngoại giao, thì màn ca cảnh này vẫn chưa dùng được. Báo cáo, hết ý kiến!”
Liền khi ông Thái Dũng ngồi xuống, một tràng pháo tay lại nổi lên tán thưởng. Thêm hàng chục cánh tay giơ lên.
Đa số đánh bại thiểu số?
Anh Nguyễn Chí Thanh chỉ định, thế là liên tục gần chục người phát biểu, mở rộng, nhấn mạnh ý kiến của Thái Dũng. Tôi thấy anh Thanh mặt vẫn tươi như hoa.
Khi những ý kiến phản đối đã vãn, anh Thanh hỏi:
- Có ai có ý kiến gì khác không, chứ mấy ông cứ nhắc đi nhắc lại ý ông Thái Dũng, nghe cũng không bổ ích gì?
Một lát im lặng. Tôi điểm các bộ mặt, mới nhận ra rằng số người ủng hộ mình chỉ bằng nửa số buộc tội.
Anh Thanh lại hỏi:
- Vậy, mời anh Lê Quang Đạo, Cục Tuyên huấn.
Anh Đạo đứng lên, từ tốn:
- Nói như các anh vừa rồi, bắt đầu từ ý kiến anh Thái Dũng, cũng có phần quá đáng. Bộ đội ta không dễ sa sút tinh thần ngay sau màn tình ca này đâu. Nhưng anh Hoàng Cầm chưa thông qua tôi, đã cho đem diễn, kể cũng sai nguyên tắc. Nhưng tôi nghĩ trong ngày vui mà hai đại tướng đã cho phép rồi thì có thể coi tối qua như một buổi tổng duyệt nội bộ trước khi ra mắt đông đảo cán bộ, chiến sĩ.
Dẫu sao thì ý kiến các đồng chí vừa phê bình, về căn bản tôi cho là đúng. Mới chiến thắng bước đầu, từ nay đến hoà bình thực sự, thời gian không ngắn. Biết đâu còn phải vài ba cái Điện Biên nữa, ta mới hoàn toàn thắng lợi. Bộ đội vẫn phải chắc tay súng, không nên để những tình cảm lãng mạn làm nơi lỏng ý chí và tinh thần đánh giặc của quân dân. Nên vui với cái vốn cũ của dân tộc một chút thế thôi, còn diễn đại trà thì không nên.
Anh Thanh hỏi lại ngay:
- Đấy là ý kiến cá nhân anh Đạo hay là quyết định của Tuyên huấn ấy?
Ông Đạo dè dặt đáp:
- Cũng mới là ý kiến của cá nhân tôi thôi ạ.
Ông Thanh lập tức:
- Nào, thế có ai ủng hộ màn hát này không? Cứ nói thoải mái, không sợ ai kiểm điểm lập trường lập triếc gì đâu. Cả tôi đây, nếu tí nữa có nói gì, cũng chỉ là nhân danh cá nhân thôi, đừng ai nghĩ là ý Chủ nhiệm Tổng cục vội. Cá nhân với cá nhân, bình đẳng, bình quyền. Kìa, ăn bánh kẹo đi chứ. Mới có 3 rưỡi, sớm chán. Ta có thể nói chuyện với nhau đến 5 rưỡi.
Không khí trầm xuống. Bên phải đối rõ ràng đã cạn ý, nhưng bên ủng hộ vẫn còn đo đắn. Thiểu số đứt đuôi rồi. Không kể khối anh cầm sẵn phiếu trắng. Họ chỉ đến xem diễn, nghe tranh luận cho vui thôi. Tôi chơm chớm lo.
Bài học cho người lính thắng trận: thế nào là Tổ Quốc?
Lo là vậy, nhưng kể cũng lạ, cứ nhìn mặt anh Thanh là tôi lại vững dạ. Một lát, anh Thanh lại khuấy bầu không khí:
- Này, tôi hỏi mấy ông chính uỷ và chính trị viên nhé. Trước mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh lớn nhỏ, các ông thường động viên anh binh nhì thế nào nhỉ?
Một anh, như là chính uỷ trung đoàn, cứ ngồi tại chỗ, đáp lại ngang bướng:
- Báo cáo anh, cứ tuân theo tất cả chỉ thị của Tổng cục và các Cục trực thuộc mà động viên.
Nguyễn Chí Thanh: - Các ông thử nói: nội dung chính xác tài liệu của trên gửi xuống?
Đáp: - Căn bản vẫn là vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Nguyễn Chí Thanh: - Các ông không có sáng kiến riêng à?
Đáp: - Chả cần. Vì các tài liệu Tổng cục gửi xuống rất tỉ mỉ và đầy đủ rồi.
Nguyễn Chí Thanh: - Này. Đảng cần những đảng viên có sáng kiến, có cách thức riêng để động viên chính trị ở các đơn vị khác nhau chứ Đảng không cần đến những con người máy, bản sao làm vậy đâu!
Không khí bỗng trở nên nghiêm trọng hơn. Bị đánh một đòn khá nặng, mấy anh ngồi im re. Anh Thanh bỗng cười vui.
- Các ông ơi! Cứ giả dụ như tôi đang là học trò cấp 1. Vậy “em” xin các thầy chính uỷ giảng cho “em” Tổ quốc là gì ạ?
Tiếng cười lan nhanh, xì xào rồi ồn ào. Không khí trở lại thân tình. Có một giọng hơi đùa:
- Thế thì khác gì học trò đòi thầy giảng cho tại sao một cộng một lại thành hai.
Nguyễn Chí Thanh (vẫn cười): - Ấy thế mà giảng được Tổ quốc là khó lắm đấy các ông ạ. Nào, ông nào nói trước đi. Em sẵn sàng nghe các thầy đây.
Vẫn có tiếng cười - Một lời đáp:
- Sách giáo khoa cấp 1 giảng rồi ạ.
Bỗng có một dáng mập và thấp đứng bật lên nói luôn. Đó là anh Quyết Thắng, tham mưu trưởng quân khu Việt Bắc (Tên Quyết Thắng là do Hồ Chủ tịch đặt cho anh, khi anh làm công tác bảo vệ Bác ở Bắc Bộ Phủ). Anh nói, giọng ồm ồm:
- Các đồng chí nhớ cho: Tên tôi được thêu vào lá cờ quân đội đánh vào Điện Biên Phủ đấy nhá (có tiếng cười vui, vỗ tay). Tên Bác đặt cho. Cờ Quyết chiến Quyết Thắng - tôi mang tên một nửa cho cả một đời làm lính Bác Hồ, nên tôi mạn phép các đồng chí giảng hai chữ Tổ Quốc. Có cho phép tôi không nào?
Ở mỗi chiễn sĩ của ta là một ý niệm khác nhau. Người miền xuôi, miền ngược, người thành thị, nông thôn - chỗ giống nhau là cùng một đất mẹ, chỗ khác nhau là hoàn cảnh. Bộ đội thì hơn 80% là nông dân. Làng quan họ vừa rồi bắt nguồn từ nông dân tỉnh Bắc Ninh. Màn hát chỉ có hơn 20 phút mà tôi thấy cả một vùng quê cổ kính có văn hoá vào bậc nhất hiện lên, qua tất cả các diễn viên có mặt tại đây. Đấy, màn quan họ vừa rồi là Tổ quốc đấy! Dân tộc ở trong ấy… hạnh phúc ở trong ấy. Yêu nhau mà được cởi áo cho nhau thì còn gì hạnh phúc bằng.
Có tiếng cười đồng tình. Một anh khác bật dậy, cướp lời anh Quyết Thắng.
- Đúng thế, Tổ quốc ta có quan họ thì đẹp biết chừng nào! Hát có hơn 20 phút giữa những sùng sục chiến đấu, giữa những tưng bừng chiến thắng thì tôi thấy nó đúng là viên kim cương xanh biếc xếp bên viên hồng ngọc. Chả hiểu các đồng chí nghĩ sao mà lại cho rằng nó làm nhụt ý chí chiến đấu.
Không khí rộn rã lên hẳn. Gương mặt Nguyễn Chí Thanh như càng sáng hơn. Một anh khác đứng lên tiếp:
- Tôi nghĩ rằng ngược lại đấy, anh Thái Dũng hạ màn quan họ dĩ nhiên sẽ đẩy chiến sĩ đến chỗ nhớ nhà, nhớ bố mẹ, vợ con hoặc người yêu vụng trộm. Càng nhớ họ càng căm thù thằng giặc chỉ lăm le cướp giết những gì thân yêu nhất của họ. Căm thù càng sâu, tinh thần chiến đấu càng cao. Nếu chỉ mới thế này mà họ đã mất tinh thần thì xin lỗi anh Thái Dũng, anh khinh quần chúng quá đấy.
Lại thêm một anh khác cướp lời:
- Đơn vị nào cũng có đôi ba anh em vì nhớ nhà, nhớ vợ con mà nới lỏng tinh thần đôi chút. Còn 99% thì càng nhớ nhà, càng căng thẳng hăng hái. Tôi đã tự mình tổng kết công tác chính trị hàng năm. Trăm cậu bạo cũng có vài ba cậu nhát, có vậy ta mới cần công tác chính trị, mà trong công tác này thì văn nghệ là loại vũ khí sắc bén nhất. Nói anh Hoàng Cầm bỏ quá cho, chứ những đơn vị chiến đấu đã thừa khói lửa, suốt ngày nghe ùng oàng, tạch tạch, rồi được lúc xem văn công trên sân khấu lại cũng toàn cảnh bắn nhau, nghe hô “tiến lên! xung phong!” thì anh có ngấy lên không? Đêm qua chúng tôi phải cảm ơn đoàn văn công đã cho chúng tôi vài chục phút thanh cao đấy, làm gì có chuyện nhảm nhí mà anh Thái Dũng cứ át giọng người ta?
Nếu không có những đêm nửa chăn, nửa chiếu thì chắc gì dân tộc ta có được những người con ưu tú như anh Văn, anh Thanh cho đến anh binh nhì? Đấy, Tổ quốc đẹp nồng hậu, thế mà giặc định cướp đi à? Đừng hòng! Hết ý kiến!
"Phải cho văn công vào tù"
Đến lúc ấy tiếng vỗ tay mạnh mẽ hơn khi kết thúc màn quan họ. Rồi lại có một giọng lanh lảnh cất lên. Hoá ra là chị Tý - tổ trưởng nuôi quân ở văn phòng tổng cục, người đã sắp đặt bữa tiệc bánh kẹo, trà thuốc hôm nay.
Chị mới trên 30 tuổi mà đã là vợ liệt sỹ: “Em đề nghị anh Thanh cho văn công vào trại tù, diễn cho cả thằng Đờ-Cát-tơ-ri xem để nó biết, đấy, người của đất nước tao xinh đẹp thế, hát hay thế, đánh vỡ mặt chúng mày như thế, liệu bảo nhau cút đi ngay thôi”.
Vừa nghe đến vậy, anh Thanh liền chạy đến bắt tay chị Tý, trong khi tất cả, kể cả anh Thái Dũng, đồng loạt vỗ tay rào rạt. Anh Thái Dũng còn vỗ bàn tay phải nhè nhẹ lên ngực mình.
Xem chừng đã đến lúc có thể kết luận, anh Nguyễn Chí Thanh mới đứng hẳn lên bậc thềm nói: "Tôi nghĩ các ông tranh luận thế là rất thẳng thắn mà vẫn đầy tình đoàn kết với nhau, phải không ông Thái Dũng?
Tối qua, năm bẩy ông hô đả đảo cái quan họ này chắc vì các ông chưa nghĩ rằng mình đã giơ quả đấm của cánh tay phải thụi ngay vào giữa ngực mình, cái mồm vừa ăn lại vừa đi mắng mỏ cái dạ dày. Các ông nhiều gân cốt quá. Vô tình để trái tim sổng ra khổi lồng ngực, hay là mấy ông cố làm thế cho oai để ra cái điều ta là anh hùng, là khí phách? Có cô gái đẹp dịu hiền lướt qua trước mắt lại quay ngoắt đi. Đã không biết cô gái xinh đẹp ấy là ai, có xấu tính xấu nết hay không, chưa chi đã gọi người ta là con đĩ? Ừ thì không mê mẩn cô ta, nhưng tại sao lại không nhìn, không thưởng thức cái nhan sắc mà trời phú cho cô ấy. Các ông sợ cái đẹp nó quyến rũ mình à? Ồ, nếu thế thì đâu phải là khí phách?
Người có gan vẫn có thể kết bạn với một cô gái đẹp, miễn là mình giữ lòng mình không sa ngã thôi, chứ cớ sao lại xua đuổi cái đẹp màn quan họ này, khi mà nó có đủ 3 phẩm chất cơ bản của văn nghệ là chân, thiện, mỹ? Đó là cái vốn đã lâu năm của dân tộc, cụ thể là của tỉnh Bắc Ninh, chứ đoàn văn công cũng chưa đủ tài năng để sáng tác hay như vậy đâu. Như cái tranh dân gian làng Hồ quê anh Hoàng Cầm, cái đánh ghen ấy mà tôi đã được xem, tôi rất thích cái anh đàn ông ôm khư khư hai quả dừa của cô vợ bé có tiếng cười ran ran, không để cho bà vợ cả xâm phạm vào. Thật là hay, ai dám đảm bảo là thô tục nào?
Vậy nên cái vốn văn hoá của dân tộc, chỗ nào là thô kệch, là nhố nhăng, tôi chắc các cụ ta hàng trăm năm nay đã gạn nó đi hết rồi, chỉ còn lại sự trong sáng cao quý mà thôi. Cụ Nguyễn Du tả nàng Kiều tắm mà “tắm trong trướng rủ màn che” thì là khoả thân chứ gì? Có thô tục đâu? (cười).
Cô Kiều tắm trần mà nhà thơ vẽ tranh - một bức tranh thanh tao, đẹp lồng lộng cho ta được thưỏng thức, vậy chắc ông Thái Dũng cũng không nỡ mắng cô Kiều là chim chuột anh chàng Thúc Sinh chứ? (cười to).
Ông cũng không nỡ giằng lấy quyền Kiều trong tay con trai ông lúc nó đang học đến chỗ ấy chứ? (lại càng cười to). Đấy là ý kiến cá nhân Nguyễn Chí Thanh, chưa phải ý kiến của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Đồng chí nào phản đối mấy lời tôi vừa nói xin cứ tự do, tôi càng hoan ngênh… Mà sở dĩ tôi có được mấy ý kiến ấy là nhờ công giúp đỡ để hiểu sâu về văn nghệ của các anh Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Mai Văn Hiền, Thanh Tịnh và nhiều anh chị em, chứ hồi mới chỉ là một anh huỵện uỷ viên loàng xoàng ở Bình Trị Thiên, tôi chưa có đủ hiểu biết mà nói như vừa rồi. Nào ai có ý kiến gì xin mời".
Vỗ tay... nhiều người đứng cả lên vỗ tay. Tôi thì chỉ muốn ôm hôn ngay vị tướng vừa đanh thép lại vừa hoa lá ấy.
Một lúc lâu sau mới có tiếng nói: “Đủ rổi đấy ạ. Xin được nghe kết luận của Chủ nhiệm Tổng cục”.
Anh Thanh nhìn đồng hồ: “Thế mà cũng 5 giờ rồi, vậy anh Hoàng Cầm và các anh có muốn nói gì nữa không?”. Tôi đáp: “Thưa đồng chí chủ nhiệm, chúng tôi thấy rất yên tâm và chỉ còn chờ lệnh công tác, cả đoàn văn công xin hết sức cố gắng, trau dồi nghệ thuật dân tộc để phục vụ bộ đội tốt hơn nữa”.
Anh Thanh cười, “này các liền anh liền chị, cả Hoàng Cầm nữa , nghe chừng đói rồi đấy. Mình cũng đang kiến bò bụng đây, hay là để đến chiều mai cậu lên danh sách các tiết mục sẽ diễn trong thời gian từ nay đến cuối năm, có cả lời dẫn vắn tắt mà đầy đủ về nội dung chính trị và nghệ thuật đưa lên chỗ anh Lê Quang Đạo. Tôi sẽ ký duyệt sau. Nhưng thế này nhé - anh cao giọng nói vói gần trăm khán giả - xin mời các đồng chí giải tán về nhà suy nghĩ thêm, ai có ý kiến gì thật mới về màn quan họ này thì từ mai đến thẳng chỗ tôi báo cáo. Riêng các diễn viên và anh Hoàng Cầm ở lại ăn chiều với tôi. Tôi đã báo cơm ở chỗ nhà chị vừa lúc nãy muốn nói cho Đờ Cát nghe quan họ ấy”.
Có tiếng cười trong đám đông.
Mọi người ra về. Gió chiều nồm nam thổi mạnh hơn, trời rất xanh. Mây rất trắng, bay tới tấp. Lá cờ hội càng gặp gió càng lay động nhịp nhàng với những niềm rung cảm mới mẻ trong lòng tôi.
Lúc bấy giờ, anh Thái Dũng cũng đã xuống chân đồi. Tôi nhìn theo, thấy hình như anh bước đi ung dung thư thái mà vẫn dũng mãnh. Cái tay áo thõng thượt bên tay trái anh cũng cứ như xoắn bay theo chiều gió…".
Hoàng Cầm
Bài đăng trên VietNamNet
Bài đăng trên VietNamNet
Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011
Làm thế nào để nắm chắc phần thắng?
Sẽ luôn có đối thủ mạnh hơn bạn. Họ có nhiều tiền hơn, mối quan hệ rộng hơn, có uy tín hơn, kinh nghiệm phong phú hơn... Làm thế nào để bạn nắm chắc phần thắng? - Lãnh đạo doanh nghiệp, nhìn một cách nào đó, cũng giống như chơi một loại game điều khiển. Bạn sẽ thắng nếu đủ thông minh. Bằng không, bạn chỉ còn biết trông vào may rủi.
Trước khi bước vào cuộc chơi, bạn chỉ có hai sự lựa chọn: chơi nếu bạn chắc chắn mình có đủ năng lực để chiến thắng, hoặc không chơi. Nếu không cảm thấy tự tin mà chỉ hi vọng thắng cuộc, quyền quyết định thắng thua sẽ không nằm trong tay bạn. Lòng bất an sẽ ngăn trở quyết định hành động và quyền định đoạt sẽ không còn.
Sẽ luôn có đối thủ mạnh hơn bạn. Họ có nhiều tiền hơn, mối quan hệ rộng hơn, có uy tín hơn, kinh nghiệm phong phú hơn... Làm thế nào để bạn nắm chắc phần thắng?
Khoảng cách hai bên quá cách biệt, nếu bạn dồn tổng lực của mình để đấu với đối phương, chẳng khác chi kiến chọi voi, khó tránh khỏi thất bại thảm hại. Nhưng nếu tách nguồn lực của bạn ra thành từng phần và đấu với từng phần của đối phương, bạn sẽ có cơ hội thắng, hay ít ra giảm thiểu mức độ tổn thất.
Người xưa có một bí quyết giành chiến thắng trong một cuộc đua với ba con ngựa. Lấy ngựa yếu nhất của mình đấu với ngựa tốt nhất của đối phương. Lấy ngựa tốt nhất của mình đấu với ngựa trung bình của đối phương. Và lấy ngựa trung bình của mình đấu với ngựa yếu nhất của đối phương. Kết quả: thắng với tỷ số 2-1.
Bí quyết thắng cuộc nằm ở chỗ biết rõ mức độ mạnh, yếu của tất cả những gì bạn có và khéo léo sắp xếp nguồn lực của bạn để cạnh tranh hiệu quả: Bạn nên tập trung phát huy sở trường nào và nên điều chỉnh những gì?
Bạn dựa vào đâu để nắm chắc phần thắng?
Hãy khám phá tiềm năng lãnh đạo của bạn qua bài trắc nghiệm sau đây.
Câu hỏi: - “Ở vai trò lãnh đạo, bạn ra quyết định dựa trên nguyên tắc nào”?
a. Nhắm đến những mục tiêu cụ thể, có thể cân đong đo đếm.
b. Nhìn về những điều tốt đẹp có thể xảy ra trong tương lai.
c.Dựa vào những gì đã xảy ra trong quá khứ.
d. Phân tích sự việc để tìm ra hướng đi.
Đáp án:
- Nếu chọn câu a:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Đấu trường La Mã (mạnh mẽ, tranh đua).
Bạn không thích cặm cụi làm việc với số liệu hay phải phân tích thấu đáo sự việc. Bạn quan tâm đến mục tiêu bản thân nhiều hơn là những mong muốn, nhu cầu của người khác. Bạn thấy không thoải mái khi phải đi giao thiệp nhiều. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm, quảng bá và dịch vụ khách hàng.
Tuy nhiên, bạn là người dám lăn xả và chấp nhận rủi ro. Trong khi các công ty khác hoang mang trước những bất ổn trong nền kinh tế, bạn không hề nao núng. Bạn có tài xoay sở trong các tình huống bấp bênh. Tốc độ chính là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn nhanh nhẹn và quyết đoán trong việc triển khai các dự án mới hay đưa các sản phẩm mới vào thị trường.
- Nếu chọn câu b:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Mặt trời mọc (sinh khí, lạc quan).
Bạn không thích suy xét cẩn trọng mức độ rủi ro trong các tình huống. Bạn cũng không thích phát triển các hệ thống, quy trình và giám sát quá trình vận hành. Bạn dễ bị phân tâm do thích quá nhiều thứ và khó làm một việc đến nơi đến chốn. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm, quản lý chất lượng và hoàn thành mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, bạn là người rất năng động và sôi nổi. Bạn có tài huy động nguồn lực từ các mối quan hệ bên ngoài. Tài ăn nói là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn có khả năng lôi cuốn sự chú ý của khách hàng vào sản phẩm, dịch vụ công ty và tạo nên hình ảnh tích cực về công ty trong cộng đồng.
- Nếu chọn câu c:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Cá chép vượt vũ môn (nhẫn nại, bền chí).
Bạn cảm thấy bất an trước những biến động trong thị trường. Bạn không thích đi ra ngoài những khuôn khổ, chuẩn mực có sẵn. Bạn là người khiêm tốn và cảm thấy không thoải mái khi phải tự lăng xê mình. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động đổi mới, cải tiến sản phẩm, bán hàng và phát triển kinh doanh.
Tuy nhiên, bạn là người rất điềm tĩnh và kiên định. Cho dù khó khăn đến đâu, bạn không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng. Kiên trì là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn có khả năng tạo dựng lòng tin nơi đối tác, khách hàng và tạo sự tín nhiệm về công ty trong thị trường.
- Nếu chọn câu d:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Cán cân công lý (khả năng phân biệt đúng sai).
Bạn là người khép kín. Bạn không thích đi xã giao, hay phải nói quá nhiều về mình. Bạn rất sợ sai lầm và không thích làm việc bất cẩn. Vì vậy, bạn có thể đi chậm hơn các đối thủ trong việc bành trướng quy mô hoạt động, tốc độ tăng trưởng doanh thu và triển khai các dự án mới.
Tuy nhiên, bạn là người có óc phân tích và quan sát rất tốt. Bạn có tài xử lý một số lượng lớn thông tin để tìm ra nguyên nhân cốt lõi của vấn đề. Khả năng làm việc chính xác là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn đem đến sự hài lòng cho khách hàng từ việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và đảm bảo chất lượng nhất quán.
http://forum.tuvantamly.vn/showthread.php?t=11387
Theo: Kiến dựa vào đâu để ngáng ngã voi?
Trước khi bước vào cuộc chơi, bạn chỉ có hai sự lựa chọn: chơi nếu bạn chắc chắn mình có đủ năng lực để chiến thắng, hoặc không chơi. Nếu không cảm thấy tự tin mà chỉ hi vọng thắng cuộc, quyền quyết định thắng thua sẽ không nằm trong tay bạn. Lòng bất an sẽ ngăn trở quyết định hành động và quyền định đoạt sẽ không còn.
Sẽ luôn có đối thủ mạnh hơn bạn. Họ có nhiều tiền hơn, mối quan hệ rộng hơn, có uy tín hơn, kinh nghiệm phong phú hơn... Làm thế nào để bạn nắm chắc phần thắng?
Khoảng cách hai bên quá cách biệt, nếu bạn dồn tổng lực của mình để đấu với đối phương, chẳng khác chi kiến chọi voi, khó tránh khỏi thất bại thảm hại. Nhưng nếu tách nguồn lực của bạn ra thành từng phần và đấu với từng phần của đối phương, bạn sẽ có cơ hội thắng, hay ít ra giảm thiểu mức độ tổn thất.
Người xưa có một bí quyết giành chiến thắng trong một cuộc đua với ba con ngựa. Lấy ngựa yếu nhất của mình đấu với ngựa tốt nhất của đối phương. Lấy ngựa tốt nhất của mình đấu với ngựa trung bình của đối phương. Và lấy ngựa trung bình của mình đấu với ngựa yếu nhất của đối phương. Kết quả: thắng với tỷ số 2-1.
Bí quyết thắng cuộc nằm ở chỗ biết rõ mức độ mạnh, yếu của tất cả những gì bạn có và khéo léo sắp xếp nguồn lực của bạn để cạnh tranh hiệu quả: Bạn nên tập trung phát huy sở trường nào và nên điều chỉnh những gì?
Bạn dựa vào đâu để nắm chắc phần thắng?
Hãy khám phá tiềm năng lãnh đạo của bạn qua bài trắc nghiệm sau đây.
Câu hỏi: - “Ở vai trò lãnh đạo, bạn ra quyết định dựa trên nguyên tắc nào”?
a. Nhắm đến những mục tiêu cụ thể, có thể cân đong đo đếm.
b. Nhìn về những điều tốt đẹp có thể xảy ra trong tương lai.
c.Dựa vào những gì đã xảy ra trong quá khứ.
d. Phân tích sự việc để tìm ra hướng đi.
Đáp án:
- Nếu chọn câu a:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Đấu trường La Mã (mạnh mẽ, tranh đua).
Bạn không thích cặm cụi làm việc với số liệu hay phải phân tích thấu đáo sự việc. Bạn quan tâm đến mục tiêu bản thân nhiều hơn là những mong muốn, nhu cầu của người khác. Bạn thấy không thoải mái khi phải đi giao thiệp nhiều. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm, quảng bá và dịch vụ khách hàng.
Tuy nhiên, bạn là người dám lăn xả và chấp nhận rủi ro. Trong khi các công ty khác hoang mang trước những bất ổn trong nền kinh tế, bạn không hề nao núng. Bạn có tài xoay sở trong các tình huống bấp bênh. Tốc độ chính là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn nhanh nhẹn và quyết đoán trong việc triển khai các dự án mới hay đưa các sản phẩm mới vào thị trường.
- Nếu chọn câu b:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Mặt trời mọc (sinh khí, lạc quan).
Bạn không thích suy xét cẩn trọng mức độ rủi ro trong các tình huống. Bạn cũng không thích phát triển các hệ thống, quy trình và giám sát quá trình vận hành. Bạn dễ bị phân tâm do thích quá nhiều thứ và khó làm một việc đến nơi đến chốn. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm, quản lý chất lượng và hoàn thành mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, bạn là người rất năng động và sôi nổi. Bạn có tài huy động nguồn lực từ các mối quan hệ bên ngoài. Tài ăn nói là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn có khả năng lôi cuốn sự chú ý của khách hàng vào sản phẩm, dịch vụ công ty và tạo nên hình ảnh tích cực về công ty trong cộng đồng.
- Nếu chọn câu c:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Cá chép vượt vũ môn (nhẫn nại, bền chí).
Bạn cảm thấy bất an trước những biến động trong thị trường. Bạn không thích đi ra ngoài những khuôn khổ, chuẩn mực có sẵn. Bạn là người khiêm tốn và cảm thấy không thoải mái khi phải tự lăng xê mình. Vì vậy, bạn có thể thua kém đối thủ khi phải cạnh tranh trong các hoạt động đổi mới, cải tiến sản phẩm, bán hàng và phát triển kinh doanh.
Tuy nhiên, bạn là người rất điềm tĩnh và kiên định. Cho dù khó khăn đến đâu, bạn không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng. Kiên trì là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn có khả năng tạo dựng lòng tin nơi đối tác, khách hàng và tạo sự tín nhiệm về công ty trong thị trường.
- Nếu chọn câu d:
Biểu tượng lãnh đạo của bạn: Cán cân công lý (khả năng phân biệt đúng sai).
Bạn là người khép kín. Bạn không thích đi xã giao, hay phải nói quá nhiều về mình. Bạn rất sợ sai lầm và không thích làm việc bất cẩn. Vì vậy, bạn có thể đi chậm hơn các đối thủ trong việc bành trướng quy mô hoạt động, tốc độ tăng trưởng doanh thu và triển khai các dự án mới.
Tuy nhiên, bạn là người có óc phân tích và quan sát rất tốt. Bạn có tài xử lý một số lượng lớn thông tin để tìm ra nguyên nhân cốt lõi của vấn đề. Khả năng làm việc chính xác là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của bạn. Bạn đem đến sự hài lòng cho khách hàng từ việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và đảm bảo chất lượng nhất quán.
http://forum.tuvantamly.vn/showthread.php?t=11387
Theo: Kiến dựa vào đâu để ngáng ngã voi?
Các bài viết cùng chủ đề:
- Đi tìm một phong cách lãnh đạo phù hợp trong...
- Phong cách ứng xử trong kinh doanh
- Tự trắc nghiệm về khả năng thuyết phục và...
- Những câu nói trứ danh sau cùng
- Nhà quản lý nghĩ gì tới “khách hàng” của mình
- Làm thế nào để nắm chắc phần thắng?
- Nghệ thuật nói chuyện qua điện thoại
- Những lầm tưởng “nguy hại” về quyền lợi...
- MBA Trong Tầm Tay - Chủ Đề Nghiên Cứu Tình...
- Nghệ thuật thuyết phục lòng người
Đi tìm một phong cách lãnh đạo phù hợp trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam ...
Bên cạnh việc thay đổi về kỹ thuật, công nghệ, đào tạo cần phải có những tư duy mới trong công tác lãnh đạo - quản lý. Điều đó có nghĩa là người lãnh đạo - quản lý phải là người hoàn toàn khác với những ông chủ tư bản trước kia điều khiển xí nghiệp bằng roi vọt, ra những quyết định từ chiếc ghế phô tơi, hay những vị giám đốc không dám nghĩ, dám làm chỉ thụ động làm theo những quy định cứng nhắc của cơ chế cũ dưới thời bao cấp.
Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có những cái nhìn thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Họ phải có một phong cách quản lý mới, hợp lý. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở đó người lãnh đạo vừa đáp ùng được các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể người lao động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có thể khẳng định rằng, phong cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố quan trọng trong những yếu tố làm nên sự thành công trong làm ăn của một doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề phong cách lãnh đạo và lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp nhất trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn tâm lý học, vấn đề quản lý, trong đó nổi bật là phong cách lãnh đạo, đã được bàn nhiều trong các công trình khoa học. Khái niệm phong cách lãnh đạo thường được hiểu theo các góc độ sau:
Trong những công trình của các tác giả phương Tây, thường nêu lên hai kiểu quản lý (phong cách lãnh đạo) cơ bản. Đó là kiểu quản lý dân chủ và kiếu quản lý mệnh lệnh.
Kiểu quản lý dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản lý biết phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định. Kiểu quản lý này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho những người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực trong quá trình quản lý.
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập trung mọi quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo - quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể.
K. Lêvin, nhà tâm lý học người Mỹ, là người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống các phong cách quản lý. Theo ông, ngoài 2 phong cách quản lý trên còn có một kiểu thứ 3. Đó là kiểu quản lý hình thức (hay phong cách quản lý tự do). Theo kiểu này, người quản lý chỉ vạch ra kế hoạch chung, ít tham gia trực tiếp chỉ đạo, thường giao khoán cho cấp dưới và làm các việc khác ở văn phòng. Chỉ làm việc trực tiếp với người bị quản lý hay tập thể trong những trường hợp đặc biệt.
Sau này, bằng những kết quả nghiên cứu về các phong cách lãnh đạo trong các tập thể, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: ở mỗi phong cách lãnh đạo (dân chủ, độc đoán, tự do) đều có những điểm mạnh, điểm yếu. Tuy nhiên, phong cách lãnh đạo dân chủ sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn.
Nói điều này không đồng nghĩa với việc phủ nhận hiệu quả của phong cách lãnh đạo độc đoán và phong cách lãnh đạo tự do. Điều quan trọng nhất đối với nhà quản lý đó là phải biết vận dụng một cách linh hoạt phong cách lãnh đạo của mình trong các tình huống quản lý cụ thể. Điều này đã được khẳng định qua các công trình nghiên cứu. Người ta thấy rằng, kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán sẽ đạt hiệu quả khi nhà quản lý cần đề ra những yêu cầu cứng rắn, những tình huống cần phải giải quyết ngay trong một thời gian ngắn. Sẽ là không tưởng nếu vị chỉ huy trong một trận đánh khí ra quyết đính tấn công hay rút lui lại phải họp toàn thể quân lính để hỏi ý kiến. Hay người quản lý một tập thể các nhà khoa học có thể sử dụng phong cách lãnh đạo tự do để khuyến khích các nhà khoa học đó được tự do trong việc triển khai các công trình nghiên cứu, thí nghiệm...
Kế thừa các tư tưởng nghiên cứu về phong cách lãnh đạo - quản lý, Rensis Likert, một nhà tâm lý học người Mỹ đã nghiên cứu các kiểu mẫu và phong cách lãnh đạo của các nhà lãnh đạo quản lý trong 3 thập kỷ (1930 - 1960). Likert đã đưa ra ý tưởng và những cách tiếp cận mới đối với việc hiểu biết các hành vi lãnh đạo. Theo Likeđ có 4 kiểu phong cách lãnh đạo - quản lý:
Thứ nhất, phong cách quản lý "quyết đoán - áp chế”. Ở phong cách này các nhà quản lý chuyên quyền cao độ ít có lòng tin với cấp dưới, thúc đẩy người ta bằng đe doạ và thưởng phạt bằng những phần thưởng hiếm hoi, tiến hành thông tin từ trên xuống và giới hạn ở việc ra quyết định ở cấp cao nhất.
Thứ hai, phong cách lãnh đạo quyết đoán - nhân từ, các nhà quản lý loại này có lòng tin của cấp trên và tin vào cấp dưới. Thúc đẩy người cấp dưới bằng khen thưởng và bằng một ít đe doạ, trừng phạt, cho phép có ít nhiều thông tin lên trên, tiếp thu một số tư tưởng phía dưới và cho phép phần nào sự giao quyền ra quyết định nhưng kiểm tra chặt chẽ về mặt chính sách.
Thứ ba, phong cách quản lý tham vấn: Các nhà quản lý có sự tin tưởng và hy vọng lớn nhưng không hoàn toàn vào cấp dưới, dùng các phần thưởng để thúc đẩy, các luồng thông tin từ trên xuống hoặc từ dưới lên trong quá trình điều hành và hoạch định các chính sách chiến lược của Công ty. Các nhà quản lý có phong cách lãnh đạo tham vấn thường xuyên tham khảo những ý kiến khác nhau từ phía cấp dưới.
Thứ tư, phong cách quản lý "tham gia - theo 'nhóm". Các nhà quản lý có phong cách này là người có lòng tin và sự hy vọng hoàn toàn vào cấp dưới ở mọi vấn đề, luôn thu nhận các tư tưởng, ý kiến của cấp dưới và sử dụng chúng một cách xây dựng. Các nhà quản lý loại này thường sử dụng các phần thưởng về mặt kinh tế để khuyến khích cấp dưới khi đạt được các mục tiêu mà họ đề ra. Quá trình thông tin quản lý được thực hiện thông suốt theo cả 3 chiều: lên trên, xuống dưới và với những người cùng cấp. Họ thường xuyên khuyến khích cấp dưới trong việc đề ra những quyết định trong những tình huống khó khăn khi không có mặt của họ. Mặt khác, các nhà quản lý có phong cách này thường coi họ và cấp dưới như là một nhóm.
Trong 4 kiểu phong cách nói trên, qua những kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các nhà quản lý áp dụng phong cách quản lý theo kiều "tham gia theo nhóm" vào các hoạt động quản lý của mình đã thu được thành công lớn nhất với tư cách là một người lãnh đạo.
Một tác giả khác, F.E. Fiedler (nhà tâm lý học Mỹ), có một cách tiếp cận khác khi nghiên cứu về phong cách lãnh đạo. Theo F.E. Fiedler, khì việc trở thành các nhà lãnh đạo không chỉ vì các thuộc tính nhân cách của họ mà còn là vì các yếu tố tình huống khác và sự tác động tương hỗ giữa những người lãnh đạo và tình huống. Theo quan điểm của mình, ông đưa ra hai phong cách lãnh đạo chính. Phong cách lãnh đạo thứ nhất chủ yếu hướng vào nhiệm vụ, người lãnh đạo sẽ thoả mãn khi nhìn thấy nhiệm vụ được thực hiện. Phong cách còn lại chủ yếu hướng vào việc đạt được những mối quan hệ tết giữa các cá nhân nhằm thu được một địa vị cá nhân nổi bật.
Việc điểm qua một số nghiên cứu của các nhà tâm lý học phương Tây về phong cách lãnh đạo cho thấy, không có một phong cách lãnh đạo tuyệt đối nào có hiệu quả hoặc bất cứ một tình huống quản lý cụ thể nào. Một phong cách lãnh đạo tốt nhất chỉ có được khi nhà quản lý biết vận dụng một cách mềm dẻo (theo A.L. Svenciskif và A.G. Kôvaliốp - 2 nhà tâm lý học Liên Xô) có nghĩa người quản lý phải biết vận dụng các ưu thế của từng kiểu phong cách quản lý tuỳ theo đặc trưng của hoàn cảnh, biết sửa đổi lề lối của mình theo sự phát triển của tập thể, và mục đích quản lý hướng vào con người, vào các mối quan hệ người - người và mang tính nhân bản.
Bên cạnh những phong cách lãnh đạo đã và đang được áp dụng ở các tước phương Tây, thì
trong công trình nghíên cứu của GS. Hiroshi Mannari đã lựa ra một kiểu phong cách quản lý phù hợp với nền văn hoá phương Đông, mà đặc trưng của phong cách này là phong cách quản lý của các nhà quản trị kinh doanh Nhật Bản đang áp dụng.
Phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các công ty ở Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Khổng giáo và các yếu tố thuộc truyền thống dân tộc. Do vậy, đặc điểm nổi bật nhất của nó khác với phong cách quản lý của các nhà lãnh đạo phương Tây là việc xây dựng và duy trì những mối quan hệ tết đẹp, hài hoà giữa những người dưới quyền và phát huy tinh thần đoàn kết thân ái với nhau. Chức năng hàng đầu của người quản lý doanh nghiệp là phải tạo điều kiện và giúp đỡ các nhóm, ca kíp, các tổ, đội sản xuất hoàn thành tết nhiệm vụ của mình, thể hiện ở năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, bằng cách loại trừ các xung đột, phát huy ý thức đoàn kết, thống nhất. Trong xã hội Nhật Bản truyền thống, vai trò và vị trí của nhóm được đặc biệt coi trọng. Tiếp tục truyền thống ấy, người đứng đầu mỗi nhóm phải tạo đựng cho được một bầu không khí thuận lợi để đạt được mục tiêu mà cả nhóm đã xác định. Như vậy, người lãnh đạo nhóm phải làm sao giữ được sự "cân bằng", tạo ra cảm giác trong những người dưới quyền rằng, giữa họ không có sự khác biệt nhau là mấy.
Người lãnh đạo, người quản lý chỉ thực sự được đánh giá là có tài năng, có bản lĩnh khì người đó thiết lập và duy trì được quan hệ tốt đẹp giữa người này với người khác trong nhóm, giữa nhóm này và nhóm khác trong doanh nghiệp.
Phong cách quản lý Nhật Bản được thừa nhận là độc đáo ở chỗ: Người lãnh đạo luôn ý thức rằng, họ phải thiết lập các quan hệ không chính thức với những người dưới quyền bằng thái độ ứng xử chân tình, gần gũi, chan hoà, sự thiện cảm và đồng cảm ở người dưới quyền. Đối với các nhà quản lý Nhật Bản, quan hệ gần gũi, thân mật với người dưới quyền không phải là mục đích tự thân mà là một nhiệm vụ để qua đó tạo được bầu không khí cởi mở, chân tình, tin cậy lẫn nhau trong tập thể. Hơn thế nữa, nó là động lực khuyến khích mọi người đóng góp trí tuệ, tài năng, sức lực vào công việc chung. Phong cách quản lý Nhật Bản còn độc đáo ở cách thức khen thưởng và kỷ luật. Khen thưởng không chỉ dành cho những ai có sáng kiến, đạt năng suất lao động cao, mà cả những người làm việc chăm chỉ, cần mẫn, dù năng lực của họ như thế nào. Khen thưởng phải có tác dụng khích lệ những người dưới quyền dám làm những gì họ cho là đúng và hợp lý, không ngồi chờ thụ động chỉ thị cấp trên. Nếu có điều gì không tốt xảy ra thì ban quản trị cũng không mất công truy tìm, điều tra người phạm lỗi (điều này khác hẳn so với phương pháp quản lý theo phương Tây).

Điều quan trọng của việc thực hiện các biện pháp kỷ luật của người lãnh đạo với người dưới quyền không phải là tìm cho ra thủ phạm rồi thi hành kỷ luật bằng phạt tiền, đuổi việc mà là tìm ra và làm rõ cho mọi người hiểu rõ nguyên nhân sai lầm để rút ra kinh nghiệm. Khi phê bình, người lãnh đạo Nhật Bản không bao giờ làm cho người mắc khuyết điểm bị mất thể diện, phải lúng túng trước tập thể, trước :tổ đội sản xuất... Họ thường trao đổi riêng với người phạm sai lầm theo tình thần hai bên cùng chịu trách nhiệm, cùng nhau tìm cách tháo gỡ những vướng mắc, những hậu quả nào đó. Vì vậy mà người mắc lỗi sẽ không phải mặc cảm về mình như là "đồ bỏ đi", "vô dụng" chừng nào người đó còn cố gắng vươn lên.
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thay rằng việc áp dụng một kiểu phong cách lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh doanh không đơn giản là áp dụng nguyên bản một kiểu phong cách nào đó trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh mà đòi hỏi người quản trì phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong cách lãnh đạo thích hợp, tuỳ vào những điều kiện, tình huống cụ thể của doanh nghiệp. Như vậy, áp dụng phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động quản trị kinh doanh cũng phải tuân theo cách làm trên.
Theo đề xuất của chúng tôi thì một phong cách lãnh đạo phù hợp với các đặc điểm đặc thù của Việt Nam sẽ là phong cách lãnh đạo mà ở đó người lãnh đạo phải có tính quyết đoán thể hiện qua các phẩm chất dám nghe dám làm, dám chịu trách nhiệm, tự tin, ra được những quyết đính kịp thời trong những tình huống khó khăn. Bên cạnh đó, người lãnh đạo tạo ra được nhiều điều kiện thuận lợi để cấp dưới phát huy hết năng lực, trí lực, óc sáng tạo, lòng nhiệt tình vào công việc, có hệ thống chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời, thích đáng nhằm động viên người lao động phát huy mọi tiềm năng, ổn định tinh thần và đảm bảo được cuộc sống.
Các luồng thông tin trong quản lý phải luôn được đảm bảo theo các kênh từ trên xuống dưới, từ cấp dưới lên trên. Và một đặc điểm quan trọng trong phong cách quản lý này đó là phải tính tới những đặc điểm dân tộc, đạo đức, văn hoá của người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói rằng, một phong cách lãnh đạo tốt là một sản phẩm mang tính trí tuệ cao của người lãnh đạo, thể hiện sự nhuần nhuyễn trong cách sử dụng các phong cách lãnh đạo khác nhau vào các tình huống khác nhau, đồng thời phù hợp với các đặc điểm văn hóa Việt Nam.
Theo bài đăng trên Saga .
Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có những cái nhìn thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Họ phải có một phong cách quản lý mới, hợp lý. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở đó người lãnh đạo vừa đáp ùng được các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể người lao động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có thể khẳng định rằng, phong cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố quan trọng trong những yếu tố làm nên sự thành công trong làm ăn của một doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề phong cách lãnh đạo và lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp nhất trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn tâm lý học, vấn đề quản lý, trong đó nổi bật là phong cách lãnh đạo, đã được bàn nhiều trong các công trình khoa học. Khái niệm phong cách lãnh đạo thường được hiểu theo các góc độ sau:
- Được coi là một nhân tố quan trọng của người quản lý, lãnh đạo, nó gắn liền với kiểu người lãnh đạo và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý con người.
- Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện về mặt khoa học và tổ chức lãnh đạo, quản lý mà còn thể hiện tài năng, chí hướng, nghệ thuật điều khiển, tác động người khác của người lãnh đạo.
- Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.
- Phong cách lãnh đạo là hệ thống các đấu hiệu đặc trưng của hoạt và động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của họ.
- Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện, và được biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo = Cá tính x Môi trường.
Trong những công trình của các tác giả phương Tây, thường nêu lên hai kiểu quản lý (phong cách lãnh đạo) cơ bản. Đó là kiểu quản lý dân chủ và kiếu quản lý mệnh lệnh.
Kiểu quản lý dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản lý biết phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định. Kiểu quản lý này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho những người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực trong quá trình quản lý.
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập trung mọi quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo - quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể.
K. Lêvin, nhà tâm lý học người Mỹ, là người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống các phong cách quản lý. Theo ông, ngoài 2 phong cách quản lý trên còn có một kiểu thứ 3. Đó là kiểu quản lý hình thức (hay phong cách quản lý tự do). Theo kiểu này, người quản lý chỉ vạch ra kế hoạch chung, ít tham gia trực tiếp chỉ đạo, thường giao khoán cho cấp dưới và làm các việc khác ở văn phòng. Chỉ làm việc trực tiếp với người bị quản lý hay tập thể trong những trường hợp đặc biệt.
Sau này, bằng những kết quả nghiên cứu về các phong cách lãnh đạo trong các tập thể, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: ở mỗi phong cách lãnh đạo (dân chủ, độc đoán, tự do) đều có những điểm mạnh, điểm yếu. Tuy nhiên, phong cách lãnh đạo dân chủ sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn.
Nói điều này không đồng nghĩa với việc phủ nhận hiệu quả của phong cách lãnh đạo độc đoán và phong cách lãnh đạo tự do. Điều quan trọng nhất đối với nhà quản lý đó là phải biết vận dụng một cách linh hoạt phong cách lãnh đạo của mình trong các tình huống quản lý cụ thể. Điều này đã được khẳng định qua các công trình nghiên cứu. Người ta thấy rằng, kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán sẽ đạt hiệu quả khi nhà quản lý cần đề ra những yêu cầu cứng rắn, những tình huống cần phải giải quyết ngay trong một thời gian ngắn. Sẽ là không tưởng nếu vị chỉ huy trong một trận đánh khí ra quyết đính tấn công hay rút lui lại phải họp toàn thể quân lính để hỏi ý kiến. Hay người quản lý một tập thể các nhà khoa học có thể sử dụng phong cách lãnh đạo tự do để khuyến khích các nhà khoa học đó được tự do trong việc triển khai các công trình nghiên cứu, thí nghiệm...
![]() | Hình ảnh này đã được thay đổi kích cỡ. Click vào thanh này để xem toàn bộ hình ảnh. Ban đầu là hình ảnh có kích thước1184x1814 và dung lượng 276KB. |

Thứ nhất, phong cách quản lý "quyết đoán - áp chế”. Ở phong cách này các nhà quản lý chuyên quyền cao độ ít có lòng tin với cấp dưới, thúc đẩy người ta bằng đe doạ và thưởng phạt bằng những phần thưởng hiếm hoi, tiến hành thông tin từ trên xuống và giới hạn ở việc ra quyết định ở cấp cao nhất.
Thứ hai, phong cách lãnh đạo quyết đoán - nhân từ, các nhà quản lý loại này có lòng tin của cấp trên và tin vào cấp dưới. Thúc đẩy người cấp dưới bằng khen thưởng và bằng một ít đe doạ, trừng phạt, cho phép có ít nhiều thông tin lên trên, tiếp thu một số tư tưởng phía dưới và cho phép phần nào sự giao quyền ra quyết định nhưng kiểm tra chặt chẽ về mặt chính sách.
Thứ ba, phong cách quản lý tham vấn: Các nhà quản lý có sự tin tưởng và hy vọng lớn nhưng không hoàn toàn vào cấp dưới, dùng các phần thưởng để thúc đẩy, các luồng thông tin từ trên xuống hoặc từ dưới lên trong quá trình điều hành và hoạch định các chính sách chiến lược của Công ty. Các nhà quản lý có phong cách lãnh đạo tham vấn thường xuyên tham khảo những ý kiến khác nhau từ phía cấp dưới.
Thứ tư, phong cách quản lý "tham gia - theo 'nhóm". Các nhà quản lý có phong cách này là người có lòng tin và sự hy vọng hoàn toàn vào cấp dưới ở mọi vấn đề, luôn thu nhận các tư tưởng, ý kiến của cấp dưới và sử dụng chúng một cách xây dựng. Các nhà quản lý loại này thường sử dụng các phần thưởng về mặt kinh tế để khuyến khích cấp dưới khi đạt được các mục tiêu mà họ đề ra. Quá trình thông tin quản lý được thực hiện thông suốt theo cả 3 chiều: lên trên, xuống dưới và với những người cùng cấp. Họ thường xuyên khuyến khích cấp dưới trong việc đề ra những quyết định trong những tình huống khó khăn khi không có mặt của họ. Mặt khác, các nhà quản lý có phong cách này thường coi họ và cấp dưới như là một nhóm.
Trong 4 kiểu phong cách nói trên, qua những kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các nhà quản lý áp dụng phong cách quản lý theo kiều "tham gia theo nhóm" vào các hoạt động quản lý của mình đã thu được thành công lớn nhất với tư cách là một người lãnh đạo.
Một tác giả khác, F.E. Fiedler (nhà tâm lý học Mỹ), có một cách tiếp cận khác khi nghiên cứu về phong cách lãnh đạo. Theo F.E. Fiedler, khì việc trở thành các nhà lãnh đạo không chỉ vì các thuộc tính nhân cách của họ mà còn là vì các yếu tố tình huống khác và sự tác động tương hỗ giữa những người lãnh đạo và tình huống. Theo quan điểm của mình, ông đưa ra hai phong cách lãnh đạo chính. Phong cách lãnh đạo thứ nhất chủ yếu hướng vào nhiệm vụ, người lãnh đạo sẽ thoả mãn khi nhìn thấy nhiệm vụ được thực hiện. Phong cách còn lại chủ yếu hướng vào việc đạt được những mối quan hệ tết giữa các cá nhân nhằm thu được một địa vị cá nhân nổi bật.
Việc điểm qua một số nghiên cứu của các nhà tâm lý học phương Tây về phong cách lãnh đạo cho thấy, không có một phong cách lãnh đạo tuyệt đối nào có hiệu quả hoặc bất cứ một tình huống quản lý cụ thể nào. Một phong cách lãnh đạo tốt nhất chỉ có được khi nhà quản lý biết vận dụng một cách mềm dẻo (theo A.L. Svenciskif và A.G. Kôvaliốp - 2 nhà tâm lý học Liên Xô) có nghĩa người quản lý phải biết vận dụng các ưu thế của từng kiểu phong cách quản lý tuỳ theo đặc trưng của hoàn cảnh, biết sửa đổi lề lối của mình theo sự phát triển của tập thể, và mục đích quản lý hướng vào con người, vào các mối quan hệ người - người và mang tính nhân bản.
Bên cạnh những phong cách lãnh đạo đã và đang được áp dụng ở các tước phương Tây, thì

Phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các công ty ở Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Khổng giáo và các yếu tố thuộc truyền thống dân tộc. Do vậy, đặc điểm nổi bật nhất của nó khác với phong cách quản lý của các nhà lãnh đạo phương Tây là việc xây dựng và duy trì những mối quan hệ tết đẹp, hài hoà giữa những người dưới quyền và phát huy tinh thần đoàn kết thân ái với nhau. Chức năng hàng đầu của người quản lý doanh nghiệp là phải tạo điều kiện và giúp đỡ các nhóm, ca kíp, các tổ, đội sản xuất hoàn thành tết nhiệm vụ của mình, thể hiện ở năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, bằng cách loại trừ các xung đột, phát huy ý thức đoàn kết, thống nhất. Trong xã hội Nhật Bản truyền thống, vai trò và vị trí của nhóm được đặc biệt coi trọng. Tiếp tục truyền thống ấy, người đứng đầu mỗi nhóm phải tạo đựng cho được một bầu không khí thuận lợi để đạt được mục tiêu mà cả nhóm đã xác định. Như vậy, người lãnh đạo nhóm phải làm sao giữ được sự "cân bằng", tạo ra cảm giác trong những người dưới quyền rằng, giữa họ không có sự khác biệt nhau là mấy.
Người lãnh đạo, người quản lý chỉ thực sự được đánh giá là có tài năng, có bản lĩnh khì người đó thiết lập và duy trì được quan hệ tốt đẹp giữa người này với người khác trong nhóm, giữa nhóm này và nhóm khác trong doanh nghiệp.
Phong cách quản lý Nhật Bản được thừa nhận là độc đáo ở chỗ: Người lãnh đạo luôn ý thức rằng, họ phải thiết lập các quan hệ không chính thức với những người dưới quyền bằng thái độ ứng xử chân tình, gần gũi, chan hoà, sự thiện cảm và đồng cảm ở người dưới quyền. Đối với các nhà quản lý Nhật Bản, quan hệ gần gũi, thân mật với người dưới quyền không phải là mục đích tự thân mà là một nhiệm vụ để qua đó tạo được bầu không khí cởi mở, chân tình, tin cậy lẫn nhau trong tập thể. Hơn thế nữa, nó là động lực khuyến khích mọi người đóng góp trí tuệ, tài năng, sức lực vào công việc chung. Phong cách quản lý Nhật Bản còn độc đáo ở cách thức khen thưởng và kỷ luật. Khen thưởng không chỉ dành cho những ai có sáng kiến, đạt năng suất lao động cao, mà cả những người làm việc chăm chỉ, cần mẫn, dù năng lực của họ như thế nào. Khen thưởng phải có tác dụng khích lệ những người dưới quyền dám làm những gì họ cho là đúng và hợp lý, không ngồi chờ thụ động chỉ thị cấp trên. Nếu có điều gì không tốt xảy ra thì ban quản trị cũng không mất công truy tìm, điều tra người phạm lỗi (điều này khác hẳn so với phương pháp quản lý theo phương Tây).

Điều quan trọng của việc thực hiện các biện pháp kỷ luật của người lãnh đạo với người dưới quyền không phải là tìm cho ra thủ phạm rồi thi hành kỷ luật bằng phạt tiền, đuổi việc mà là tìm ra và làm rõ cho mọi người hiểu rõ nguyên nhân sai lầm để rút ra kinh nghiệm. Khi phê bình, người lãnh đạo Nhật Bản không bao giờ làm cho người mắc khuyết điểm bị mất thể diện, phải lúng túng trước tập thể, trước :tổ đội sản xuất... Họ thường trao đổi riêng với người phạm sai lầm theo tình thần hai bên cùng chịu trách nhiệm, cùng nhau tìm cách tháo gỡ những vướng mắc, những hậu quả nào đó. Vì vậy mà người mắc lỗi sẽ không phải mặc cảm về mình như là "đồ bỏ đi", "vô dụng" chừng nào người đó còn cố gắng vươn lên.
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thay rằng việc áp dụng một kiểu phong cách lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh doanh không đơn giản là áp dụng nguyên bản một kiểu phong cách nào đó trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh mà đòi hỏi người quản trì phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu phong cách lãnh đạo thích hợp, tuỳ vào những điều kiện, tình huống cụ thể của doanh nghiệp. Như vậy, áp dụng phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động quản trị kinh doanh cũng phải tuân theo cách làm trên.
Theo đề xuất của chúng tôi thì một phong cách lãnh đạo phù hợp với các đặc điểm đặc thù của Việt Nam sẽ là phong cách lãnh đạo mà ở đó người lãnh đạo phải có tính quyết đoán thể hiện qua các phẩm chất dám nghe dám làm, dám chịu trách nhiệm, tự tin, ra được những quyết đính kịp thời trong những tình huống khó khăn. Bên cạnh đó, người lãnh đạo tạo ra được nhiều điều kiện thuận lợi để cấp dưới phát huy hết năng lực, trí lực, óc sáng tạo, lòng nhiệt tình vào công việc, có hệ thống chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời, thích đáng nhằm động viên người lao động phát huy mọi tiềm năng, ổn định tinh thần và đảm bảo được cuộc sống.
Các luồng thông tin trong quản lý phải luôn được đảm bảo theo các kênh từ trên xuống dưới, từ cấp dưới lên trên. Và một đặc điểm quan trọng trong phong cách quản lý này đó là phải tính tới những đặc điểm dân tộc, đạo đức, văn hoá của người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói rằng, một phong cách lãnh đạo tốt là một sản phẩm mang tính trí tuệ cao của người lãnh đạo, thể hiện sự nhuần nhuyễn trong cách sử dụng các phong cách lãnh đạo khác nhau vào các tình huống khác nhau, đồng thời phù hợp với các đặc điểm văn hóa Việt Nam.
Theo bài đăng trên Saga .
GS Tạ Quang Bửu - Tấm gương của một người trí thức chân chính
Tags: GS Bửu, GS Tạ Quang Bửu, của một người, không phải là, rất sâu sắc, chúng ta, cốt yếu, sinh học, một số, Của ông, tấm gương, viết, biết, sống, năm
Kỷ niệm 95 năm ngày sinh GS Tạ Quang Bửu (23-7-1910 – 23-7-2005)
GS Bửu có sự uyên bác rất kỳ lạ. Tôi chỉ nói một khía cạnh nhỏ, đó là lĩnh vực sinh học- một lĩnh vực khác hẳn với chuyên ngành Toán học, chuyên ngành mà ông đã lấy bằng Tú tài Toán từ năm 1929, và sau đó là những năm được đào tạo chính quy ở các Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh)… Trong kháng chiến chống Pháp, khi bố tôi làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, có lần Cụ đã mang về nhà cuốn sách “Sống” và cuốn “Vui sống” do GS Tạ Quang Bửu viết, được in trên giấy dó. Tôi còn nhỏ quá nên đọc không hiểu. Sau này học đại học chuyên ngành sinh học tôi mới có điều kiện đọc lại (nay đã được in lại trong sách “Tạ Quang Bửu” (NXB Giáo dục, 2005, tr.161-195). Phải nói là kỳ lạ vì GS Bửu viết ra những điều rất uyên bác ấy vào năm 1948, nghĩa là năm năm trước khi J.D.Watson và F.H.C.Crick khám phá ra cấu trúc ADN, mở màn cho thời đại Sinh học phân tử. Thời ấy mà GS Bửu đã viết được: Ngoài chromosome (nay gọi là nhiễm sắc thể- NLD) thì tế bào chỉ chứa những hóa chất không có gì đặc sắc…Nhưng số đặc tính trong một con người lớn hơn số chromosome nhiều, nên các đặc tính ấy chỉ có thể chiếm những phần tử rất bé của chromosome: mỗi đặc tính sẽ chiếm một căn cứ gọi là gen… Một chromosome là một chuỗi gồm 2000 gen và như thế chiều dài của mỗi gen không quá 3/10000mm hay ba trăm Angtrom. Theo đó một gen dài bằng một trăm lần khoảng cách giữa hai nguyên tử trong một khí. Còn bao nhiêu khái niệm hiện đại khác mà GS Bửu viết bằng tiếng Anh (hoặc có bớt đi các âm thừa) như Crossing-over, Homozygot, Heterozygot, Phenotyp, Genotyp, Haploid, Gamete, Mitose, Meiose, Diploid, Mutation… Bất kỳ nhà sinh học nào đọc lại cuốn sách mỏng này và nhớ rằng GS Bửu viết ra vào năm 1948 thì chỉ có thể từ ngạc nhiên đến khâm phục. Ngày nay, khi các nhà sinh học trên thế giới bắt đầu chuyển sang nghiên cứu Sinh học lượng tử (Quantum Biology) thì ngay trong cuốn sách rất mỏng kia GS Bửu đã khẳng định được rằng: Gen, phân tử khổng lồ, theo thuyết Delbruck, cũng là một hệ thống phải cắt nghĩa bằng những định luật của Lượng tử học. Tiếc rằng tác phẩm này GS Bửu viết bằng tiếng Việt chứ nếu không chắc hẳn phải được coi là một trong những trước tác kinh điển của giới Sinh học quốc tế,vì trong đó đã có những tiên đoán rất khoa học. Về những uyên bác trong Toán học và Vật lý học của GS Bửu chắc chúng ta đều đã biết rõ. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết GS Bửu là người cùng KS. Phạm Quang Lễ (tức GS Trần Đại Nghĩa sau này) đã lên Thái Nguyên thử đạn bazôca của Mỹ ngay sau khi KS Lễ vừa theo Bác Hồ từ Pháp về Hà Nội. Ông không chỉ uyên bác về kiến thức mà rất tài hoa trong việc viết tài liệu phổ biến khoa học. Cái khó mà tôi cố học ở ông là: viết thế nào để ai đọc cũng thấy những cái mới nhưng ai đọc cũng hiểu được, hay ít nhiều hiểu được nội dung chủ yếu. Sự uyên bác của GS Bửu gắn liền với tinh thần tự học suốt đời của ông. Ông chỉ có bằng Cử nhân trong tay, cho nên khi có người hỏi bằng cấp nào cao nhất mà ông có thì người ta đồn rằng ông đã trả lời là Bằng bơi lội do Hoàng gia Anh cấp (!). Ông miệt mài đọc sách và chọn toàn những quyển cốt lõi nhất để đọc. Thí dụ như về sinh học ông chọn cuốn Was is Leben của E.Schrdinger qua bản dịch tiếng Đức (vì không có nguyên bản tiếng Anh). Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga và cả chữ Hán nữa. Khi đã ở cương vị lãnh đạo cao, GS Bửu vẫn đều đặn đến thư viện khoa học để tự chọn sách mượn về đọc. Là người lãnh đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp trong 11 năm trời, GS Bửu đã đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo không chỉ cho hai ngành này mà cả cho ngành giáo dục phổ thông nữa. Xin nhắc lại một số ý kiến mà GS Bửu đã từng phát biểu: Mục đích phấn đấu của chúng ta là làm cho học sinh tốt nghiệp lớp 10 phải biết làm một số việc như biến đổi đại số, giải một số phương trình đại số, tính được một số đạo hàm, vẽ một số đồ thị; còn về mặt hình học cũng phải biết làm một số động tác cần cho các chứng minh và cho việc dựng hình. Biết làm là chủ yếu còn biết nhiều về toán học chỉ là yêu cầu phụ và chúng ta phải làm sao cho học sinh thông qua biết làm mà biết nhiều và biết sâu…Thầy cần tránh nói sai để sau phải cải chính lại, vì cải chính chỉ xóa bỏ cái sai của thầy chứ không xóa được cái sai mà trò đã tiếp thu…. Ở bậc phổ thông, bài tập nên theo sát từng đợt các bài giảng để học sinh nắm vững định nghĩa và quy tắc. Rõ ràng không cần nhiều bài tập mà cần một số ít nhưng thật tiêu biểu, nhất định phải làm được…Thần đồng toán học là một quá trình xây dựng chứ không phải là một hiện tượng bẩm sinh… Chúng ta nên kiên quyết tập cho học sinh từ bé cân nhắc trước khi viết, biết quý sự viết ít mà đúng, làm sao chỉ nháp một lần, và bản nháp đã gần như bản sạch… Hình như chúng ta chưa làm được bao nhiêu so với các lời căn dặn của GS Bửu (!). Trong gần một thập kỷ phụ trách việc xây dựng và quản lý nền khoa học và công nghệ nước ta, GS Bửu cũng đã có biết bao chính kiến cơ bản và thỏa đáng. Chúng ta không thể quên những lời chỉ bảo của ông, chẳng hạn như: Kỹ thuật là nhập cảng, là bắt chước, rồi cải tiến, sáng tạo trong cái bắt chước…Tất nhiên chúng ta càng phải sáng tạo. Nhưng sáng tạo ở đâu? Sáng tạo thế nào? Sáng tạo để làm gì? Chưa thật rõ ràng lắm. Phải chăng chúng ta phải sáng tạo để nâng cao hiệu suất và chất lượng? Ý thức về chất lượng, kỷ luật và chất lượng của chúng ta còn thấp. Cứ như vậy mãi, sẽ khó mà có tiến bộ kỹ thuật, đừng nói gì đến cách mạng kỹ thuật… Chúng ta phải thanh toán càng nhanh càng tốt hiện tượng sản xuất không có kỹ thuật. Hơn nữa, chúng ta phải tiến đến thanh toán kỹ thuật không có cơ sở khoa học…Trường chúng ta phải là trường vừa học vừa làm để đào tạo ra những người vừa làm vừa học… GS Tạ Quang Bửu có một nhân cách hết sức quý giá. Chưa bao giờ ông lo nghĩ cho riêng bản thân mình. Nghe nói ông dùng chiếc TV đen trắng cho mãi đến khi người con rể tặng ông một chiếc TV màu (!). Ông rất gần gũi với mọi người và biết chọn trong mỗi ngành những người giỏi để trực tiếp giao nhiệm vụ. Ông giao cho những việc rất cụ thể và tận tình hướng dẫn để có thể làm bằng được. Đi công tác địa phương ông kéo những cán bộ này đi theo và chỉ định những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết. Càng giỏi càng khiêm tốn và càng biết tin dùng lớp trẻ. Đó là bài học không phải ai cũng có thể học được. Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chia tay với chúng ta 19 năm rồi, nhưng tấm gương và những lời căn dặn của ông luôn còn mãi trong những người được có dịp làm việc với ông, những học trò của ông và tất cả những ai được biết đến về tài năng và nhân cách của ông. Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của ông, chúng ta nên nhớ đến một câu ông đã viết trong tác phẩm “Sống”: Điều cốt yếu không phải là sống là gì. Điều cốt yếu là làm gì trong lúc sống. Nguyễn Lân Dũng (Sài Gòn giải phóng) |
Kỷ niệm 95 năm ngày sinh GS Tạ Quang Bửu (23-7-1910 – 23-7-2005)
![]() |
GS Tạ Quang Bửu |
GS Bửu có sự uyên bác rất kỳ lạ. Tôi chỉ nói một khía cạnh nhỏ, đó là lĩnh vực sinh học- một lĩnh vực khác hẳn với chuyên ngành Toán học, chuyên ngành mà ông đã lấy bằng Tú tài Toán từ năm 1929, và sau đó là những năm được đào tạo chính quy ở các Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh)…
Trong kháng chiến chống Pháp, khi bố tôi làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, có lần Cụ đã mang về nhà cuốn sách “Sống” và cuốn “Vui sống” do GS Tạ Quang Bửu viết, được in trên giấy dó. Tôi còn nhỏ quá nên đọc không hiểu. Sau này học đại học chuyên ngành sinh học tôi mới có điều kiện đọc lại (nay đã được in lại trong sách “Tạ Quang Bửu” (NXB Giáo dục, 2005, tr.161-195).
Phải nói là kỳ lạ vì GS Bửu viết ra những điều rất uyên bác ấy vào năm 1948, nghĩa là năm năm trước khi J.D.Watson và F.H.C.Crick khám phá ra cấu trúc ADN, mở màn cho thời đại Sinh học phân tử. Thời ấy mà GS Bửu đã viết được: Ngoài chromosome (nay gọi là nhiễm sắc thể- NLD) thì tế bào chỉ chứa những hóa chất không có gì đặc sắc…Nhưng số đặc tính trong một con người lớn hơn số chromosome nhiều, nên các đặc tính ấy chỉ có thể chiếm những phần tử rất bé của chromosome: mỗi đặc tính sẽ chiếm một căn cứ gọi là gen…
Một chromosome là một chuỗi gồm 2000 gen và như thế chiều dài của mỗi gen không quá 3/10000mm hay ba trăm Angtrom. Theo đó một gen dài bằng một trăm lần khoảng cách giữa hai nguyên tử trong một khí. Còn bao nhiêu khái niệm hiện đại khác mà GS Bửu viết bằng tiếng Anh (hoặc có bớt đi các âm thừa) như Crossing-over, Homozygot, Heterozygot, Phenotyp, Genotyp, Haploid, Gamete, Mitose, Meiose, Diploid, Mutation… Bất kỳ nhà sinh học nào đọc lại cuốn sách mỏng này và nhớ rằng GS Bửu viết ra vào năm 1948 thì chỉ có thể từ ngạc nhiên đến khâm phục.
Ngày nay, khi các nhà sinh học trên thế giới bắt đầu chuyển sang nghiên cứu Sinh học lượng tử (Quantum Biology) thì ngay trong cuốn sách rất mỏng kia GS Bửu đã khẳng định được rằng: Gen, phân tử khổng lồ, theo thuyết Delbruck, cũng là một hệ thống phải cắt nghĩa bằng những định luật của Lượng tử học. Tiếc rằng tác phẩm này GS Bửu viết bằng tiếng Việt chứ nếu không chắc hẳn phải được coi là một trong những trước tác kinh điển của giới Sinh học quốc tế,vì trong đó đã có những tiên đoán rất khoa học.
Về những uyên bác trong Toán học và Vật lý học của GS Bửu chắc chúng ta đều đã biết rõ. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết GS Bửu là người cùng KS. Phạm Quang Lễ (tức GS Trần Đại Nghĩa sau này) đã lên Thái Nguyên thử đạn bazôca của Mỹ ngay sau khi KS Lễ vừa theo Bác Hồ từ Pháp về Hà Nội. Ông không chỉ uyên bác về kiến thức mà rất tài hoa trong việc viết tài liệu phổ biến khoa học. Cái khó mà tôi cố học ở ông là: viết thế nào để ai đọc cũng thấy những cái mới nhưng ai đọc cũng hiểu được, hay ít nhiều hiểu được nội dung chủ yếu.
Sự uyên bác của GS Bửu gắn liền với tinh thần tự học suốt đời của ông. Ông chỉ có bằng Cử nhân trong tay, cho nên khi có người hỏi bằng cấp nào cao nhất mà ông có thì người ta đồn rằng ông đã trả lời là Bằng bơi lội do Hoàng gia Anh cấp (!).
Ông miệt mài đọc sách và chọn toàn những quyển cốt lõi nhất để đọc. Thí dụ như về sinh học ông chọn cuốn Was is Leben của E.Schrdinger qua bản dịch tiếng Đức (vì không có nguyên bản tiếng Anh). Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga và cả chữ Hán nữa. Khi đã ở cương vị lãnh đạo cao, GS Bửu vẫn đều đặn đến thư viện khoa học để tự chọn sách mượn về đọc.
Là người lãnh đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp trong 11 năm trời, GS Bửu đã đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo không chỉ cho hai ngành này mà cả cho ngành giáo dục phổ thông nữa.
Xin nhắc lại một số ý kiến mà GS Bửu đã từng phát biểu: Mục đích phấn đấu của chúng ta là làm cho học sinh tốt nghiệp lớp 10 phải biết làm một số việc như biến đổi đại số, giải một số phương trình đại số, tính được một số đạo hàm, vẽ một số đồ thị; còn về mặt hình học cũng phải biết làm một số động tác cần cho các chứng minh và cho việc dựng hình. Biết làm là chủ yếu còn biết nhiều về toán học chỉ là yêu cầu phụ và chúng ta phải làm sao cho học sinh thông qua biết làm mà biết nhiều và biết sâu…Thầy cần tránh nói sai để sau phải cải chính lại, vì cải chính chỉ xóa bỏ cái sai của thầy chứ không xóa được cái sai mà trò đã tiếp thu….
Ở bậc phổ thông, bài tập nên theo sát từng đợt các bài giảng để học sinh nắm vững định nghĩa và quy tắc. Rõ ràng không cần nhiều bài tập mà cần một số ít nhưng thật tiêu biểu, nhất định phải làm được…Thần đồng toán học là một quá trình xây dựng chứ không phải là một hiện tượng bẩm sinh… Chúng ta nên kiên quyết tập cho học sinh từ bé cân nhắc trước khi viết, biết quý sự viết ít mà đúng, làm sao chỉ nháp một lần, và bản nháp đã gần như bản sạch… Hình như chúng ta chưa làm được bao nhiêu so với các lời căn dặn của GS Bửu (!).
Trong gần một thập kỷ phụ trách việc xây dựng và quản lý nền khoa học và công nghệ nước ta, GS Bửu cũng đã có biết bao chính kiến cơ bản và thỏa đáng. Chúng ta không thể quên những lời chỉ bảo của ông, chẳng hạn như: Kỹ thuật là nhập cảng, là bắt chước, rồi cải tiến, sáng tạo trong cái bắt chước…Tất nhiên chúng ta càng phải sáng tạo.
Nhưng sáng tạo ở đâu? Sáng tạo thế nào? Sáng tạo để làm gì? Chưa thật rõ ràng lắm. Phải chăng chúng ta phải sáng tạo để nâng cao hiệu suất và chất lượng? Ý thức về chất lượng, kỷ luật và chất lượng của chúng ta còn thấp. Cứ như vậy mãi, sẽ khó mà có tiến bộ kỹ thuật, đừng nói gì đến cách mạng kỹ thuật… Chúng ta phải thanh toán càng nhanh càng tốt hiện tượng sản xuất không có kỹ thuật. Hơn nữa, chúng ta phải tiến đến thanh toán kỹ thuật không có cơ sở khoa học…Trường chúng ta phải là trường vừa học vừa làm để đào tạo ra những người vừa làm vừa học…
GS Tạ Quang Bửu có một nhân cách hết sức quý giá. Chưa bao giờ ông lo nghĩ cho riêng bản thân mình. Nghe nói ông dùng chiếc TV đen trắng cho mãi đến khi người con rể tặng ông một chiếc TV màu (!). Ông rất gần gũi với mọi người và biết chọn trong mỗi ngành những người giỏi để trực tiếp giao nhiệm vụ. Ông giao cho những việc rất cụ thể và tận tình hướng dẫn để có thể làm bằng được. Đi công tác địa phương ông kéo những cán bộ này đi theo và chỉ định những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết. Càng giỏi càng khiêm tốn và càng biết tin dùng lớp trẻ. Đó là bài học không phải ai cũng có thể học được.
Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chia tay với chúng ta 19 năm rồi, nhưng tấm gương và những lời căn dặn của ông luôn còn mãi trong những người được có dịp làm việc với ông, những học trò của ông và tất cả những ai được biết đến về tài năng và nhân cách của ông. Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của ông, chúng ta nên nhớ đến một câu ông đã viết trong tác phẩm “Sống”: Điều cốt yếu không phải là sống là gì. Điều cốt yếu là làm gì trong lúc sống.
Nguyễn Lân Dũng (Sài Gòn giải phóng)
Giáo sư Tạ Quang Bửu - một “thiên huyền thoại” (*)
Có người cho rằng “Tạ Quang Bửu là một bộ óc Lê Quý Đôn thời nay”. Nhận định ấy cần có thêm thời gian để bình tĩnh kiểm chứng. Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng đó không phải là điều thiếu căn cứ.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS. Tạ Quang Bửu, chúng tôi xin trích đăng một số nội dung chính trong bài viết của tác giả Hàm Châu đăng trên trang Văn hóa Nghệ An. Xin giới thiệu cùng bạn đọc:
Ngay trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, ông đã mời một số nhà toán học Pháp được tặng Huy chương Fields (được coi như Giải thưởng Nobel trong toán học) như Laurent Schwartz, Alexandre Grothendieck sang thăm Việt Nam, đọc bài giảng về các vấn đề toán học hiện đại nhất, để cập nhật kiến thức cho đội ngũ nghiên cứu toán học nước ta.
Ông là người đề xướng và tổ chức thực hiện việc thi tuyển sinh đại học và kiểm tra kiến thức nghiên cứu sinh một cách công bằng, minh bạch. Ông cũng là một trong những người chủ trương mở các lớp phổ thông chuyên toán ở nước ta vào năm 1965, từ đó đào tạo được mấy thế hệ các nhà khoa học tài năng cho đất nước. Ông mạnh dạn đưa học sinh ta đi dự các Olympic Toán Quốc tế ngay từ mùa hè năm 1974, khi nửa nước còn chiến tranh giải phóng. Nhiều học sinh chuyên toán thời ấy, về sau, đã trở thành những nhà toán học, nhà vật lý, nhà cơ học hay nhà quản lý khoa học và giáo dục có tiếng...
Giáo sư Tạ Quang Bửu.
Bộ óc bách khoaCó người cho rằng “Tạ Quang Bửu là một bộ óc Lê Quý Đôn thời nay”. Nhận định ấy cần có thêm thời gian để bình tĩnh kiểm chứng. Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng đó không phải là điều thiếu căn cứ.
Tạ Quang Bửu sinh ngày 23/7/1910 tại làng Hoành Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho yêu nước. Cha là cụ cử nhân nho học Tạ Quang Diễm. Mẹ là bà Nguyễn Thị Đào (tức nữ sĩ Sầm Phố) có nhiều bài thơ vịnh cảnh nghèo, gửi gắm chút tình non nước in trên các báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Thời Đàm...

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Giáo sư Tạ Quang Bửu (23/7/1910 - 23/7/2010), chiều qua 22/7, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận và lãnh đạo Văn phòng Bộ đã tới thăm gia đình và dâng hương tưởng nhớ cố giáo sư. (Ảnh: Giáo dục & thời đại)
Năm 1917, ở phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, mở kỳ thi cho những học sinh bảy tuổi, thi cả chữ Hán, Việt văn và toán, do ông nghè Đinh Văn Chấp chấm. Cậu bé Bửu đỗ cao và từ đấy nổi tiếng học giỏi.Năm 1929, là học sinh Trường Bưởi (Hà Nội), Tạ Quang Bửu đỗ đầu kỳ thi tú tài bản xứ (chương trình học và thi rất nặng). Sau đó, ông thi cùng học sinh các trường Tây, đỗ đầu tú tài Tây ban toán, và đỗ hạng ưu tú tài Tây ban triết. Toán học và triết học là hai môn được ông yêu thích ngay từ khi còn trẻ.
Đỗ cao nên ông nhận được học bổng của Hội Như Tây du học (một hội khuyến học của Nam triều) để sang Pháp học tiếp. Trước đó, vào năm 1928, các ông Nguyễn Xiển và Hoàng Xuân Hãn cũng đã nhận được học bổng của Hội này để đi du học.
Đến Paris, ngành học đầu tiên ông Bửu chọn là toán học. Các giáo sư Pháp rất quý ông về sự nhạy cảm toán học và óc suy luận thông minh, sắc bén. Sau này, GS. Lê Văn Thiêm kể lại: Trong kỳ thi lấy một chứng chỉ rất khó, hơn 100 người dự thi, chỉ có 4 người đỗ trong đó có ông Bửu.
Sau khi theo học chương trình cử nhân khoa học tại Đại học Sorbonne (Paris), ông Bửu xuống Bordeaux để học thêm thầy Trousset về cơ học. Ông đọc kỹ cuốn Cơ học của Rauth và làm hầu hết các bài tập trong đó. Rồi ông dự thi và nhận được học bổng của Đại học Oxford bên Anh. Tại đây ông có cơ hội trau dồi tiếng Anh, nhất là về mặt ngữ âm và hội thoại, cũng như học cơ học lượng tử qua các xêmina. Năm 1938, ông lại có dịp trở lại nước Anh dự Trại Tráng sĩ của Tổ chức Hướng đạo Thế giới, thi lấy bằng trại trưởng. Một mẩu chuyện vui: Ông phải thi thuyết giáo về kinh Phúc Âm tại một nhà thờ Tin lành ở Anh, hấp dẫn đến mức có người tưởng ông là... mục sư!
Trở về nước, ông từ chối làm quan, chỉ nhận dạy toán và tiếng Anh tại Trường Thiên Hựu, một trường trung học tư ở Huế. Ông nhận thấy khó có thể hiểu sâu văn hóa Việt Nam và phương Đông nếu không học kỹ chữ Hán. Ông lên Bến Ngự xin thụ giáo cụ Phan Bội Châu, miệt mài nghiền ngẫm loại văn tự khó bậc nhất thế giới này. Ông dần tự đọc hiểu Luận Ngữ của Khổng Tử, Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Nam Hoa Kinh của Trang Tử và nhiều tác phẩm kinh điển khác của triết học phương Đông trong nguyên văn Hán ngữ. Vốn kiến văn uyên bác ấy giúp ông gặt hái nhiều thành quả về sau...
Ngay trong mấy năm đầu chống Pháp vô cùng khó khăn, ông liên tiếp cho ra mắt bạn đọc nhiều cuốn sách như: Thống kê thường thức, Vật lý cương yếu, Nguyên tử - Hạt nhân - Vũ trụ tuyến, và Sống. Mới đây, Nhà xuất bản Giáo Dục đã in lạicác tác phẩm ấy.
Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 1948 ở Việt Bắc, ông Nguyễn Xiển nói: “Trong thời kỳ kháng chiến này, ông Bửu là nhà khoa học viết được nhiều nhất, do vậy có thể ảnh hưởng nhiều nhất đến các thế hệ đương thời.” Rồi ông Xiển dự báo: “Với những người mở đường như ông Bửu, ông Thiêm, chắc chắn nước ta sẽ có hàng trăm nhà toán học có tài không kém nước khác”.
GS. Lê Văn Thiêm có lần kể lại: “Năm 1951, đến thăm anh Bửu tại một ngôi nhà lá dùng làm trụ sở của cơ quan Bộ Quốc phòng giữa rừng Tuyên Quang, tôi kinh ngạc và thú vị khi thấy, tuy chìm ngập trong công việc, anh vẫn dành thời gian đọc các sách báo toán nổi tiếng qua tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức...”.
GS Bửu có thói quen đọc sách ở mọi nơi, mọi lúc, đọc rất nhanh, nhớ rất lâu. Có lần qua châu Sơn Dương, ngồi trên lưng ngựa, mải mê đọc Nicolas Bourbaki, ông ngã tòm xuống suối! Về sau, ông viết cuốn Về cấu trúc của N. Bourbaki (1960). Và, cuốn sách giới thiệu khoa học hiện đại cuối cùng của GS. Bửu là cuốn Hạt cơ bản in sau khi ông qua đời.
Theo GS. Thiêm thì “năng lực tự học của anh Bửu gần như là một thiên huyền thoại!”
Nhà ngôn ngữ học toán học người Mỹ Noam Chomsky, người được tạp chí Mỹ Newsweek (Tuần Tin tức) đánh giá là “một trong những nhà bác học lớn nhất thế kỷ 20”, nhiều lần sang thăm Việt Nam và trò chuyện với GS Tạ Quang Bửu. Trở về Mỹ, N. Chomsky viết bằng tiếng Pháp: “Monsieur Ta Quang Buu est un homme d’une intelligence formidable!” (Ông Tạ Quang Bửu là một người thông minh khủng khiếp!).
GS. Bửu còn là người tinh thông nhiều ngoại ngữ. Ông Nguyễn Xuân Huy cho biết: Hồi Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta nhận được pháo phòng không của Liên Xô (cũ), kèm theo một bản hướng dẫn cách sử dụng máy ngắm bắn máy bay bằng tiếng Nga. Ông Huy không biết nhờ ai dịch, bởi vì lúc đó ở Bộ Quốc phòng chỉ có phiên dịch tiếng Trung Quốc. Nghe nói trên Bộ có ông Bửu chỉ tự học ba tháng đã đọc hiểu tiếng Nga, ông Huy liền cuốc bộ suốt một ngày một đêm lên gặp.
“Anh Bửu xem lướt qua, rồi đọc một mạch tiếng Nga làm tôi phục quá! Xong, anh dịch ngay ra tiếng Pháp cho tôi đem về đọc lại thật kỹ để hướng dẫn bộ đội” - ông Huy kể lại mẩu chuyện đó trong một bài hồi ký in gần đây.
Năm 1963, nhà toán học Ba Lan Mikusinsky gửi tặng GS. Bửu một số kết quả nghiên cứu mới của mình. GS Bửu đọc thẳng tiếng Ba Lan và sau đó thuyết trình về toán tử Mikusinsky cho các giảng viên toán tại các trường đại học ở Hà Nội.
Còn về tiếng Anh, thì trong những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám, là Tham nghị trưởng ngoại giao (lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), ông Bửu giúp Bác Hồ soạn thảo các bức công hàm gửi Stalin, Truman, Atlee..., và tiếp các nhà ngoại giao Anh, Mỹ...
Mới đây, trong cuốn sách dày hơn 500 trang nhan đề Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?), ông Archimedes L. A. Patti, một người Mỹ vốn là đại tá tình báo, miêu tả những con người và sự kiện ở Hà Nội vào năm 1945, trong đó có đoạn:
“Một vị khách đợi tôi ở biệt thự. Đó là ông Tạ Quang Bửu, một người Việt Nam ưu tú, có lẽ gần 30 tuổi. Tôi nhớ hình như đã trông thấy ông ở đâu đó nhưng không chắc lắm. Tôi và Bernique bắt tay ông. Ông tự giới thiệu là “do Bộ Nội vụ cử tới”. Ông nói tiếng Anh hoàn hảo với giọng đặc Oxford, không lơ lớ chút nào, khiến tôi sững sờ kinh ngạc...”...
Người phát hiện, bồi dưỡng, nâng đỡ, cảm hoá các tài năng khoa học
Sau ngày Hà Nội giải phóng (10/10/1954), với cương vị Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng Thư ký Uỷ ban Khoa học Nhà nước, rồi Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, GS. Tạ Quang Bửu đã hết lòng xây dựng đội ngũ các nhà toán học Việt Nam. Ngay trong những năm chiến tranh ác liệt, để cập nhật kiến thức cho đội ngũ toán học nước ta, ông đã mời nhiều nhà toán học Pháp được tặng Huy chương Fields như Laurent Schwartz hay Alexandre Grothendieck sang thăm Việt Nam, đọc bài giảng về các vấn đề toán học hiện đại nhất.
Có thể nói, GS. Tạ Quang Bửu có mối quan hệ gắn bó thân thiết và có ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều nhà khoa học, kỹ thuật có uy tín ở nước ta như: Hoàng Tụy, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Đạo, Hoàng Xuân Sính, Nguyễn Đình Trí, Hoàng Hữu Đường, Phan Đức Chính, Phạm Hữu Sách, Đàm Trung Đồn, Vũ Thanh Khiết, Nguyễn Lân Dũng, Đặng Vũ Minh, Nguyễn Văn Điệp, Hà Huy Khoái, Ngô Huy Cẩn (tiến sĩ khoa học cơ học, thân phụ nhà toán học Ngô Bảo Châu), v.v.
GS. Nguyễn Văn Hiệu, nhà vật lý Việt Nam được tặng Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - kỹ thuật, kể lại: “Đầu năm 1958, tại giảng đường Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Tạ Quang Bửu thuyết trình về phát minh vật lý mới đoạt Giải thưởng Nobel của hai nhà bác học người Mỹ gốc Hoa là Lý Chính Đạo và Dương Chấn Ninh về sự không bảo toàn tính chẵn lẻ trong tương tác yếu. Buổi thuyết trình hôm ấy đã mang đến cho tôi một niềm hứng thú vô biên và đột ngột mặc dù, vào lúc đó, tôi chưa thật hiểu rõ nội dung phát minh nói trên. Tương tác yếu trở thành một đề tài nghiên cứu mang tính thời sự nóng hổi, hấp dẫn đến mức có nhà vật lý nước ngoài từng quả quyết: “Trái tim tôi thuộc về tương tác yếu!” Tôi cảm thấy câu nói đó không xa lạ đối với chính mình. Cho nên, ngay sau khi được cử sang làm việc tại Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna ở Liên Xô, tôi say mê lao vào nghiên cứu lĩnh vực nói trên và chẳng bao lâu sau, công bố 12 công trình về neutrino…”.
GS. Ngô Việt Trung, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ ba, Viện trưởng Viện Toán học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho biết: “Tôi còn nhớ đó là một buổi chiều chớm lạnh giữa thập niên 70 thế kỷ trước. Sau giờ làm việc, GS. Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, sang công tác tại CHDC Đức, cho gọi tôi và vài anh em ta đang học tập, nghiên cứu tại đây đến khách sạn, nơi ông lưu trú. Lúc bấy giờ, tôi đang theo học Đại học Berlin. GS. Bửu thân mật hỏi chuyện chúng tôi và, đối với riêng tôi, ông cho mượn một cuốn sách chuyên khảo thuộc chuyên ngành tôi đang nghiên cứu, rồi căn dặn nên đọc thêm những nhà toán học nào ở phương Tây, bởi vì, theo ông, trong chuyên ngành này, các công trình của các nhà toán học CHDC Đức và các nước xã hội chủ nghĩa khác chưa phải là tiên tiến nhất. Cuộc trò chuyện kéo dài đến quá nửa đêm. GS. Bửu bảo chúng tôi ngủ lại tại phòng ông. Nhưng trong phòng chỉ có… một cái giường! Ông nêu ra “sáng kiến”: Tất cả ngủ ngay dưới sàn nhà bởi vì, theo ông, sàn có trải thảm len, không sợ lạnh… Tôi cảm thấy ngành khoa học và giáo dục nước ta, vào thời điểm ấy, đã có một nhà lãnh đạo tài, đức tuyệt vời. Vì vậy, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ khoa học toán học ở nước bạn, tôi vui vẻ trở về nước phục vụ, mặc dù biết rằng mình sẽ phải đương đầu với vô vàn khó khăn…”.
GS. Tạ Quang Bửu còn cảm hoá nhiều nhà trí thức Việt kiều hướng về Tổ quốc. Ông có quan hệ thân thiết với các nhà toán học Frédéric Phạm, Lê Dũng Tráng, Bùi Trọng Liễu, v.v.
Trong thiên hồi ký Chuyện gia đình và ngoài đời, GS. Bùi Trọng Liễu, Đại học Paris, kể lại: “Vào khoảng năm đầu thập niên 1960, cái thời xa xăm ấy, lúc mà tâm trí đông đảo bà con Việt kiều hầu như còn dồn cả vào tình hình chính trị miền nam, và chỉ lẻ tẻ vài cá nhân tự nguyện gửi sách báo, dụng cụ khoa học về một vài cơ sở ở miền bắc, bỗng một bữa tôi nhận được một cuốn từ điển khoa học in trong nước do anh Tạ Quang Bửu gửi tặng. Sự việc thật đơn giản này gợi cho tôi câu hỏi: Đây là đường lối “chiêu hiền đãi sĩ” của cách mạng Việt Nam mà anh là một trong những người góp phần vạch ra và thực hiện, hay là một dấu hiệu trong nước không từ chối sự đóng góp “tri thức” của kiều bào nước ngoài? Chắc là cả hai. Quan hệ giữa tôi và anh bắt đầu từ ngày đó..."....
Sau khi qua đời, GS. Tạ Quang Bửu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về “Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học - kỹ thuật hiện đại sau năm 1945”.
Để mãi mãi ghi nhớ cống hiến của ông cho cách mạng và khoa học, ở Hà Nội, có một đường phố mang tên phố Tạ Quang Bửu chạy xuyên qua Trường đại học Bách khoa, nơi ông từng làm hiệu trưởng vào những ngày đầu trường mới thành lập.
Thời gian trôi nhanh! Thấm thoắt đã đền dịp kỷ niệm l00 năm ngày sinh GS. Tạ Quang Bửu. Là nhà báo, nhà văn, là đồng hương Nam Đàn, Nghệ An, và cũng là người em họ của GS. Bửu, tôi trân trọng ghi lại đôi điều về con người quá cố vô cùng đáng kính ấy, con người mà, khi ông còn sống, tôi đã may mắn có mối quan hệ chân tình gần gũi...
Theo Hàm Châu
Văn hóa Nghệ An
GS-TS Lê Dũng Tráng (Việt kiều Pháp) là nhà toán học nổi tiếng. Gặp ông vào một buổi chiều ở Hà Nội để nghe chia sẻ những trăn trở về việc sử dụng nhân tài cho đất nước và khát vọng xây dựng thế hệ nhà toán học trẻ VN lừng danh thế giới

GS-TS Lê Dũng Tráng luôn kỳ vọng xây dựng một thế hệ nhà toán học trẻ VN lừng danh thế giới
Năm 1971, khi mới 24 tuổi, Lê Dũng Tráng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học, trở thành một trong những tiến sĩ khoa học trẻ nhất của Pháp. Mở đầu bản luận án, ông viết: “Kính tặng nhân dân tôi, Tổ quốc tôi. Tổ quốc VN anh hùng”. Năm 1972, ông được mời về nước giảng dạy tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. Nhớ lại thời gian đó, GS-TS Lê Dũng Tráng kể tuy đời sống vất vả nhưng ông vẫn cảm thấy công việc rất thú vị và có ý nghĩa vì đó là cách góp sức đào tạo thế hệ toán học trẻ cho nước nhà. “Tôi là người đầu tiên mang quốc tịch VN Dân chủ Cộng hòa có mặt tại Mỹ vào năm 1974” - ông nói, giọng đầy tự hào. Năm đó, tại một hội thảo toán học quốc tế, TS Lê Dũng Tráng đã trang trọng ghi tên VN vào một tấm biển, đặt giữa những tấm biển của các nước có nền toán học phát triển.
Lê Dũng Tráng đoạt giải toán học của Viện Hàn lâm Pháp năm 1990. Ba năm sau, ông trở thành viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học các nước đang phát triển, Chủ tịch Ban Toán - Trung tâm Khoa học Quốc tế của Viện Hàn lâm Abdus Salam (tên một nhà khoa học Pakistan đoạt giải Nobel). Nhận thấy đất nước còn nghèo, ông thường xuyên bỏ tiền riêng về nước giảng dạy, đồng thời vận động bà con kiều bào quyên góp sách toán gửi về cho sinh viên VN, đặc biệt là vận động để đưa một số nhà khoa học danh tiếng của VN vào Viện Hàn lâm Abdus Salam, trong đó có GS Nguyễn Văn Hiệu. Theo GS-TS Tráng, viện hàn lâm này là nơi tập hợp sức mạnh tri thức, hiện có khoảng 700 người thuộc các nước đang phát triển tham gia. Ông rất tâm đắc với ý tưởng đưa lớp thanh niên trẻ, có tài của VN vào viện để họ có thể tiếp xúc với tri thức của thế giới và mang một giải Nobel về cho quê hương.
“Ban đầu, tôi rất lạc quan khi trở về VN. Khi ấy tôi mong muốn sẽ có một thế hệ các nhà toán học mới ở VN sau 25 năm. Nhưng bây giờ, phải mất đến 35 năm, VN mới có được một nhà toán học như Ngô Bảo Châu” - GS-TS Lê Dũng Tráng nói, giọng trầm buồn.
Ông luôn trăn trở về vấn đề sử dụng nguồn nhân lực của nước nhà. Theo ông, trong hàng triệu kiều bào hiện đang sống ở nước ngoài có nhiều người tài, vấn đề là tận dụng nguồn chất xám này ra sao. GS-TS Tráng tâm sự: “Số Việt kiều có tài về nước rất nhiều nhưng thực tế tận dụng chất xám của họ còn hạn chế. VN cần phát huy nguồn lực này để có điều kiện sánh bước cùng thế giới”.
VN thiếu mảng giáo dục xã hội Theo GS-TS Lê Dũng Tráng, giáo dục của VN hiện còn máy móc, nặng nề, chưa khuyến khích trí sáng tạo, suy nghĩ của lớp trẻ. Ông nhận xét: “Khi mới về VN, tôi đã nhận thấy điều đó ở các trường sư phạm trong nước. Các trường không có mảng giảng dạy các kiến thức xã hội cho học sinh, trong khi giáo dục xã hội là rất quan trọng. Vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, giáo dục Pháp đã có nhiều lớp dạy học sinh nấu ăn, khâu vá, đặc biệt là cách dạy học sinh trở thành người có ích...”. |
Bài và ảnh: Bích Diệp
Tại sao giáo dục Việt Nam khủng hoảng và đâu là lối thoát?
Nguyễn Đình Đăng
(Bài này được viết xong cách đây một năm về trước, giữa lúc các cuộc tranh luận về cứu nguy hay chấn hưng giáo dục trong nước diễn ra sôi nổi. Tuy nhiên, ngay cả sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Giáo dục đến nay đã 5 tháng, đọc lại bài viết thấy vẫn còn nguyên tính thời sự, tác giả đã quyết định gửi đăng sau khi sửa lại và bổ sung chú giải [3] và [6].)
1. Tại sao?
Có lẽ chưa bao giờ khủng hoảng về giáo dục ở Việt Nam lại được nói đến với nhiều bức xúc như hiện nay. Có người đã ví hiện trạng giáo dục Việt Nam như một cơ thể ốm yếu với những “khối u dị dạng”[1] mà nếu không cắt bỏ bây giờ thì cơ thể sẽ không còn cách nào để thoát khỏi lưỡi hái của Thần Chết.
Người ta nói nhiều đến căn bệnh này nhưng phần lớn các cuộc thảo luận phần nhiều chỉ liệt kê các hiện tượng và hậu quả. Để giải quyết triệt để một bài toán đau đầu, điều tối quan trọng là phải nhận cho ra những nguyên nhân sâu xa đưa đến những hiện tượng đó.
Vậy nguyên nhân dẫn đến tấn bi kịch hiện nay của giáo dục Việt Nam nằm ở đâu? Phải chăng gốc rễ của vấn đề nằm ở hai điểm chính sau đây:
- Thứ nhất là truyền thống học để làm quan của người Việt. Điều này đã bắt đầu từ xa xưa, có thể là từ khi đạo Nho của người Tàu thâm nhập vào nước Việt. Toàn bộ tình trạng học gạo, học vẹt, thi cử nặng nề, học chỉ để cốt thi đỗ đại học v.v. ngày nay là hậu quả của hệ thống thi cử “lều chõng” xưa kia của Việt Nam - một hệ thống mà qua bao cuộc “bể dâu”, tuy có nhiều thay đổi về hình thức, nhưng thực chất vẫn y nguyên. Người Việt phần nhiều học để ra “làm quan” chứ không phải vì tò mò, vì nhu cầu tự thân của những sung sướng do hiểu biết đem lại.
- Thứ hai đó là thái độ không tôn trọng (nếu không nói là coi rẻ) cá nhân con người trong xã hội Việt Nam, đặc biệt là thái độ chưa thực sự tin tưởng trí thức, những người một thời từng bị xếp vào tầng lớp “tiểu tư sản” và hay “giao động”, và chịu sự miệt thị của một số tầng lớp khác[2].
Bước ngoặt trong chính sách giáo dục ở Bắc Việt Nam xảy ra vào khoảng những năm 70 khi ông Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Từng là một trí thức học ở Pháp, ông là người đầu tiên đề ra hình thức thi vào đại học của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trước đó, học sinh vào đại học chỉ được chọn theo thành phần và lý lịch, không hề có thi cử. Với chính sách mới, yêu cầu về lý lịch dần dần được nới lỏng, yêu cầu về điểm số cao đạt được trong các kỳ thi được chú trọng. Các học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi đại học được nhà nước gửi đi học tại các nước xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ.

(1910 - 1986)
Nhưng cũng từ lúc đó xã hội Viêt Nam bước vào một giai đoạn mới sau chiến tranh với khủng hoảng lớn nhất bắt đầu từ sự mất lòng tin. Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 người dân dần dần mất lòng tin vào phát ngôn của các chức sắc. Nhiều cán bộ bắt đầu mất lòng tin vào chính những gì mình từng tin trước đó. Bên cạnh đó cuộc sống với các nhu cầu về vật chất càng ngày càng tăng của con người làm cho người ta thấy rằng những điều người ta tin theo trước kia chỉ là “đạo đức giả”, rằng một khi đã sinh ra làm người thì ai cũng thích giàu sang vinh hoa phú quý. Điều này làm lung lay nền tảng cơ sở “mình vì mọi người mọi người vì mình”, “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, v.v.
Xã hội có sự chuyển biến về chất. Thay vì phải che giấu xuất thân gia đình tư sản hay tiểu tư sản như trước kia, tầng lớp “tư bản mới” bắt đầu khoe giàu khoe sang công khai, bắt đầu lấy tiền ra làm thước đo mọi giá trị. Thái độ đó xa lạ với giới trí thức chân chính, và phản ánh trình độ văn hóa đạo đức chung thấp kém của toàn xã hội. Xã hội không có luật pháp rõ ràng, chỉ được điều hành dựa trên các chính sách và nghị quyết. Mang tiếng là có một nhà nước vì dân, do dân, nhưng thực chất là nhân dân luôn bị coi là phải phục vụ nhà nước chứ không phải ngược lại. Tất cả các bản nhận xét người dân tốt đều phải có câu “chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách...”, v.v. Vì thế việc các cơ quan hành pháp, an ninh lộng quyền, dọa nạt, hà hiếp nhân dân, trong đó có trí thức, trở thành một tệ nạn… Sự ổn định của xã hội được duy trì không phải bằng ý thức tự giác của cộng đồng của những con người tự do, mà bằng nỗi sợ hãi của người dân đối với bộ máy quan lại và công an.
Trong cơn “gió giục mây vần” này hệ thống giáo dục lại thay đổi rất ít, ngoại trừ một số “cải lùi” hình thức, phản tự nhiên như việc cải cách chữ viết năm nào. Thay vì có một chương trình để dạy trẻ làm Con Người toàn diện, nhà trường vẫn chỉ chú trọng dạy học sinh để trở thành những công cụ cho bộ máy nhà nước, tức là ra làm quan, y như xưa. Vì thế xã hội bắt đầu bỏ tiền ra “mua tước mua quan” đưa đến nạn mua bằng cấp, lạm phát học hàm học vị, nạn “học giả bằng thật” mà nhiều người đã nói đến, v.v. Trong tình trạng “phó tiến sỹ nhiều như lợn con”[3] - như câu nói cửa miệng trong dân gian - loại “trí thức rởm” đã làm giới trí thức trong nước nói chung bị mất uy tín trầm trọng. Hiện tượng này cộng với đồng lương ít ỏi của giáo viên trong tình trạng “nhà nước giả vờ trả lương, cán bộ giả vờ làm việc”, tham nhũng tăng lên, đạo đức xã hội tụt xuống (cũng chính do giáo dục khủng hoảng), đã sản sinh ra các lớp học “thêm” đầu tiên, dẫn đến quốc nạn học thêm ngày nay. Khủng hoảng giáo dục lại dẫn đến sự suy đồi về đạo đức. Đạo đức suy đồi tác động ngược lại hệ thống giáo dục vốn đang khủng hoảng. Cái vòng luẩn quẩn tưởng như sẽ không bao giờ dứt.
2. Lối thoát
Gần đây nổi lên phong trào “tìm người tài”, “sử dụng người tài”, được thảo luận rầm rĩ trên báo chí, bên cạnh các cuộc tranh cãi làm thế nào để ra khỏi khủng hoảng giáo dục. Nếu đây là biểu hiện của một giác ngộ thực sự về giá trị và vai trò của trí thức chứ không phải một “Trăm hoa đua nở III” thì có thể coi đó là một điều đáng mừng chăng?
Tuy nhiên các cuộc thảo luận nói trên vẫn chưa thoát khỏi triết lý đào tạo để phục vụ - cái thứ triết lý đã làm cho xã hội – hay ít nhất các phương tiện thông tin tuyên truyền - ngộ nhận các giải thi Olympic toán, lý quốc tế với sự tài giỏi của học sinh Việt Nam, ngộ nhận việc nhạc sỹ dương cầm Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin cách đây 1/4 thế kỷ (năm 1980) với sự ưu việt của đào tạo âm nhạc nước nhà, v.v.
Pháp luật của một xã hội văn minh phải tôn trọng dân chủ và quyền của con người. Nhà nước và mọi tổ chức chính trị là do dân tạo ra và có nghĩa vụ phục vụ nhân dân chứ không phải ngược lại. Ngân sách nhà nước, trong đó có ngành giáo dục, là do nhân dân đóng thuế mới có. Quan điểm “nhân tài phải phục vụ nhà nước” nay cần được đổi thành “nhà nước và các công ty tư nhân (hay cổ phần) phải biết cách trọng dụng nhân tài”, tức là phải đối xử tử tế với họ về mọi mặt để họ có thể tự do phát triển tất cả tài năng của họ, qua đó đem lại lợi ích cho đất nước, nhà nước và các công ty. “Đối xử tử tế" ở đây cần được hiểu đầy đủ bao gồm tiền lương, trách nhiệm, quyền hạn v.v. tương xứng với tài năng của trí thức. Người tài không có lỗi nếu họ rời bỏ quê hương ra nước ngoài vì ở nước đó họ thấy được đối xử tốt hơn. “Đất lành thì chim đậu". Con người cũng vậy. Họ có quyền tự do đi lại, tự do lựa chọn chỗ ở, tự do thay đổi quốc tịch.
Một nền giáo dục ưu việt phải lấy phương châm cung cấp cho mỗi học sinh đầy đủ điều kiện để phát triển thành con người toàn diện. Như thế nào là một con người toàn diện? Không phải xưa nay người ta không nói đến vấn đề này. Tiếc rằng những tiêu chuẩn mà chúng ta thường nghe rao giảng như “vừa hồng vừa chuyên”, “tài đức song toàn”, “con người mới xã hội chủ nghĩa”, và gần đây, cái “tâm” thời thượng, thực ra rất mơ hồ, duy ý chí, đôi khi sai lạc, và khó có thể đưa đến những biện pháp cải cách cụ thể hữu hiệu.
Người viết bài này cho rằng một con người toàn diện ngày nay phải là con người có “đất dụng võ” trong mọi xã hội văn minh, tỉ như, để sau khi lĩnh bằng thạc sỹ hay tiến sỹ của trường đại học ở Việt Nam, nếu sang Hoa Kỳ người đó sẽ không cần phải học lại để lấy bằng master hay PhD cuả Hoa Kỳ nữa.
Nhà tâm lý và giáo dục học Mỹ giáo sư Howard Gardner[4] đã cụ thể hóa các tiêu chuẩn về đức, trí, mỹ, dục,… của một con người toàn diện là một con người có đầy đủ 7 lĩnh vực của trí năng (gọi là seven types of intelligences) tạm dịch dưới đây:
1- Ngôn ngữ: là khả năng dùng ngôn ngữ để mô tả các sự kiện một cách thuyết phục, hùng biện và hình ảnh. Cần cho các nghề nghiệp như báo chí, hành chính, luật sư, thày giáo, các nhà văn, nhà thơ, viết kịch v.v.
2- Logic-toán học: là khả năng dùng các con số để tính toán và mô tả, dùng các quan niệm toán học để kết nối, ứng dụng toán học vào đời sống, vào phân tích các số liệu, xây dựng các luận điểm, nhạy cảm với tính đối xứng, với thẩm mỹ toán học, giải quyết các vấn đề trong thiết kế và mô hình hóa v.v. Cần cho các nghề nghiệp như các nhà khoa học, kỹ sư, thiết kế, nhà buôn v.v.
3- Âm nhạc: là khả năng hiểu và phát triển kỹ năng âm nhạc, rung động trước âm nhạc, hợp tác để dùng âm nhạc thoả mãn nhu cầu của người khác, diễn giải các hình thức và ý tưởng âm nhạc, biểu hiện qua sáng tạo âm nhạc và trình diễn âm nhạc. Cần cho các nghề nghiệp liên quan tới âm nhạc.
4- Không gian: là khả năng cảm thụ và trình bày thế giới một cách chính xác bằng hình ảnh trong không gian, khả năng sắp xếp màu sắc, đường nét, hình dáng đáp ứng nhu cầu của người khác, khả năng diễn giải các ý tưởng bằng hình ảnh, khả năng chuyển các ý tưởng bằng không gian hay hình ảnh thành các biểu hiện sáng tạo. Cần cho các nghề nghiệp như: nghệ sỹ, họa sỹ, nhiếp ảnh, trang trí nội thất, thiết kế thời trang, kiến trúc, xây dựng, phê bình mỹ thuật, điện ảnh v.v.
5- Thể hình (như trong các vận động viên hoặc vũ công): là khả năng dùng cơ thể và dụng cụ để tạo nên các hành động hữu hiệu, để xây dựng hay sửa chữa, giúp đỡ người khác, cảm thụ thẩm mỹ của cơ thể và dùng các giá trị đó để tạo nên các hình thức biểu hiện mới. Cần cho các nghệ nghiệp như cơ khí, huấn luyện viên, vận động viên, điêu khắc, vũ đạo, v.v.
6- Giao cảm: là khả năng tổ chức mọi người, truyền đạt rõ ràng những gì cần giải quyết, khả năng đồng cảm để giúp đỡ người khác và giải quyết các vấn đề vướng mắc, khả năng động viên kêu gọi mọi người tham gia thực hiện một mục đích chung. Cần cho các nhà tổ chức, các nhà chính trị, các nhà lãnh đạo, các nhà hoạt động xã hội, bác sỹ, hộ lý, thầy giáo, xã hội học, tâm lý học, cố vấn, nghệ sỹ, các nhà hoạt động tôn giáo v.v.
7- Nội cảm: là khả năng hiểu được chính mình, các chỗ mạnh chỗ yếu của mình, tài năng của mình, các mối quan tâm của mình, và dùng các yếu tố đó để đặt ra mục đích phấn đấu, để hiểu chính mình có ích cho người khác đến đâu và như thế nào, khả năng tạo nên các quan niệm và lý thuyết dựa trên soi xét chính bản thân mình, khả năng dùng trực giác và nhiệt tình của mình để tạo ra và bộc lộ quan điểm riêng. Cần cho các nghề nghiệp như người phác kế hoạch, kinh doanh nhỏ, tâm lý học, nghệ sỹ, hoạt động tôn giáo, nhà văn, v.v.
Tính đa trí năng nói trên cần được đưa vào hệ thống giáo dục để tạo nên các học sinh toàn diện. Cụ thể là các môn học, ngoài toán, lý, hoá, sinh, văn, sử, địa, cần có các giờ ngoại ngữ, thể thao, mỹ thuật, âm nhạc. “Cần có” ở đầy phải được hiểu theo nghĩa rất “nghiêm chỉnh” tức là phải có đầy đủ thầy cô chuyên môn, giáo cụ, chương trình chính quy, chứ không thêm vào chỉ để cho gọi là có.
I. Chương trình đào tạo toàn diện này cần bao gồm cả:
- Môn học âm nhạc phải có các thầy cô được đào tạo về âm nhạc để dạy cho trẻ về xướng âm, nhạc lý, lịch sử âm nhạc, tiếp xúc với các kinh điển âm nhạc của nhân loại như các tác phẩm của Bach, Beethoven, Mozart, Chopin, v.v., tổ chức cho học sinh có các buổi biểu diễn ca nhạc. Mỗi trường cần được trang bị các nhạc cụ cơ bản như đàn piano (một upright một grand piano), đàn organ điện tử (vài chiếc), đàn guitar (vài chiếc), bộ trống, một số kèn (như trumpet, trombonnes, cornes, saxophones, clarinettes v.v.) để có thể lập một dàn nhạc của trường, v.v.
- Môn học mỹ thuật cần có các thầy cô được đào tạo về hội họa để dạy cho trẻ những kiến thức cơ bản về mỹ thuật, về hoà sắc, về hình họa, cách vẽ bằng màu nước, màu bột, sơn dầu, acrylic, nặn tượng, làm tranh khắc (khắc gỗ, khắc kim loại, v.v.), lịch sử mỹ thuật, tiếp xúc với các kiệt tác tiêu biểu của nhân loại như các pho tượng và kiến trúc Hy Lạp, La Mã, các đại danh hoạ và các trường phái hội hoạ thế giới v.v. Mỗi trường học cần được trang bị một phòng vẽ với nhiều giá vẽ, tượng thạch cao, và một số họa cụ cần thiết khác để học sinh học vẽ v.v.
- Về thể thao: Cần có các câu lạc bộ thể thao trong trường cho các học sinh (có thể từ trung học trở lên) tự chọn như: bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, karate, judo, v.v. Mỗi trường cần có một phòng thể thao, một bể bơi, và một sân vận động nhỏ.
- Giáo dục giới tính, bao gồm cả những vấn đề như quan hệ tình dục an toàn, v.v.
- Phương pháp giáo dục cần đổi theo hướng khuyến khích học sinh tư duy độc lập, phát biểu quan điểm riêng của mình về mọi vấn đề, tránh chỉ nhai lại một đáp án duy nhất, bất kỳ đó là của ai hoặc cơ quan nào đưa ra. Trong khi tiến hành, tránh hết sức mọi hình thức chụp mũ, quy kết, mà cần đưa ra chứng minh khách quan cho học sinh thấy đâu là chân lý, và để các em tự đi đến kết luận. Điều mấu chốt là phải cung cấp cho học sinh những phương pháp tư duy logic, chứ không đơn thuần là chỉ nhồi nhét cho các em những kiến thức đã xơ cứng và cũ rích, nhiều khi nhầm lẫn, sai lạc, mà lối học gạo học vẹt không thể nào phát hiện ra[5].
- Tin học hoá toàn bộ hệ thống nhà trường: Các trường từ trung học trở lên được trang bị phòng máy vi tính và được nối mạng internet.
II. Toàn bộ sách giáo khoa phải được “chế tạo” lại, đảm bảo đẹp cả về nội dung lẫn hình thức, có màu và nhiều hình ảnh minh họa. Học sinh cầm trên tay quyển sách giáo khoa đẹp cũng cảm thấy tò mò, hứng thú học hơn. Để có sách giáo khoa tốt nên tư nhân hoá toàn bộ việc xuất bản sách giáo khoa, tạo điều kiện cho các nhà sách cạnh tranh, mời các tác giả hay nhất viết sách giáo khoa, các họa sỹ, nhà nhiếp ảnh, nhà thiết kế giỏi trình bày sách giáo khoa. Sách giáo khoa cần được biên soạn lại hàng năm để bổ sung những kiến thức mới nhất của nhân loại, và loại bỏ những gì đã lỗi thời. Các trường có toàn quyền tự lựa chọn sách giáo khoa cho các học sinh của mình. Bộ Giáo dục chỉ đưa ra các yêu cầu về chương trình mà các nhà viết sách giáo khoa cần đảm bảo, sau đó lập hội đồng xét duyệt để công nhận các bộ sách giáo khoa nào đạt yêu cầu để có thể dùng cho giảng dạy[6].
III. Tại các trường công, nhà nước cần đảm bảo cho các thày cô có thu nhập nuôi sống được gia đình họ để họ có thể chuyên tâm nghề dạy học tại trường mà không phải “kiếm thêm ngoài giờ”[7]. Các thày cô sau khi đã nhận lương cao, không được phép dạy thêm ở bất cứ trung tâm dạy thêm nào. Người vi phạm sẽ bị thải hồi. Như vậy, những người dạy tại các trung tâm dạy thêm sẽ không đồng thời là giáo viên của các trường phổ thông hoặc giáo sư các trường đại học. Thường xuyên có các đợt sát hạch trình độ của giáo viên, cán bộ giảng dạy, để duy trì một đội ngũ các thày cô giáo thực sự có trình độ cao.
IV. Bãi bỏ toàn bộ kỳ thi vào đại học. Các trường đại học tuyển sinh dựa trên kết quả của học sinh trong suốt 3 năm cuối trường phổ thông trên cơ sở các tiêu chuẩn về đa trí năng nói ở trên, và qua phỏng vấn nếu cần. Các kỳ thi học kỳ trong trường đại học sẽ là các đợt sàng lọc sinh viên cho tới khi tốt nghiệp. Như vậy số người tốt nghiệp đại học sẽ ít hơn số người vào đại học, vì sẽ có một số, do học kém (do kém thông minh, kém tài, lười học, v.v.), không qua được các kỳ thi học kỳ, bị loại ra giữa chừng, tránh được tình trạng vào bao nhiêu ra bấy nhiêu của đào tạo đại học hiện nay.
3. Kết luận
Trên đây là một số ý kiến của cá nhân người viết bài này về nguyên nhân của khủng hoảng giáo dục ở nước ta hiện nay và đề nghị giải pháp nhằm thoát khỏi khủng hoảng đó. Đây là một công việc không đơn giản và cần phải được tiến hành đồng thời với các cải cách trong các lĩnh vực khác của xã hội ta. Trì hoãn, do dự, bảo thủ, suy tính cá nhân, v.v. trong việc này chỉ góp phần làm trầm trọng thêm hiện trạng. Nền văn minh của một đất nước không phải là được đo bằng đồng tiền, bằng thu nhập của một số người giàu có, nhất là lại do làm ăn bất chính, do tham nhũng mà có. Nền văn minh của một đất nước thực chất được thể hiện trong các giá trị tinh thần và tri thức mà nhân dân của đất nước đó tạo ra. Trong sự nghiệp này giáo dục, văn hóa, nghệ thuật và khoa học giữ vai trò quyết định.
Nếu ví nền văn minh của một quốc gia như một khu rừng thì trí thức là những ngọn cây cao nhất trong khu rừng đó. Người ta nhận ra khu rừng lớn từ đằng xa bởi trông thấy những ngọn cây đó đầu tiên.
Viết xong ngày 28 tháng 9 năm 2004 tại Tokyo
(Bản đăng tại talawas ngày 20 tháng 10 năm 2005)
[1] Theo GS Hoàng Tụy tại hội thảo về chất lượng giáo dục, Bộ GD-ĐT, tháng 12 năm 2003.
[2] Tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 4 Trường Đại học Nhân dân tổ chức vào năm 1958, giảng viên Nguyễn Văn Ch… liên hệ tới nhãn hiệu Tiếng Chủ (La Voix de Son Maitre) vẽ một con chó ngồi trước loa máy hát cuả hãng đĩa hát (bây giờ là nhãn hiệu của hãng Victor) đã phê bình các trí thức học viên là: “Đến một con chó còn nhận ra tiếng chủ nó (Il reconnait la voix de son maitre) nữa là con người mà lại không nhận ra tiếng của mẹ mình!” (Mẹ ở đây chỉ Tổ quốc).

nhãn hiệu Tiếng Chủ (La Voix de Son Maitre)
Ngày hôm sau nhà giáo Nguyễn Đình Nam (sinh năm 1921) đã sáng tác bài thơ sau đây dán bích báo:
Tiếng chủ
“L’homme n’est qu’un roseau,
le plus faible de la nature mais c’est un roseau pensant”
(Con người chỉ là một cây sậy, cái thứ yếu đuối nhất của tự nhiên,
nhưng đó là một cây sậy biết suy nghĩ.)
B. Pascal
Chó nghe tiếng chủ nhận ra ngay,
Cải tạo chúng ta lại hóa gay!
Âm nhạc chó nghe còn thích thú,
Thuyết trình người học chửa mê say.
Phải chăng người chẳng bằng loài chó?
Hay lẽ chó còn kém bọn thày?
Điều khiển óc người xem khó thật
Bởi người biết nghĩ, chó không hay.
Câu chuyện của gần nửa thế kỷ về trước đó đến nay vẫn chưa mất tính thời sự. Cuối tháng 9 năm 2005 tại Hà Nội, một nhà khoa học nước ngoài nổi tiếng, nhiều năm sống ở Việt Nam, đã nói với người viết bài này như sau: “Tôi yêu đất nước này, nhưng mặt khác tôi thấy bộ máy quan lại ở đây tham nhũng nặng nề còn trí thức thì không được tôn trọng, thậm trí bị khinh rẻ”.
[3] Sau một cải cách về học hàm chức danh gần đây “phó tiến sỹ” được gọi là “tiến sỹ”, còn các tiến sỹ trước kia thì nay được gọi là “tiến sỹ khoa học”. Tác giả Lại Nguyên Ân đã ví cải cách này như sự kiện “các phó tiến sỹ sau một đêm thức dậy bỗng đồng loạt trở thành tiến sỹ”. Văn hóa thuyết trình tại hội thảo khoa học và cách chuẩn bị một báo cáo khoa học như thế nào để hấp dẫn người nghe - một việc mà các sinh viên đại học ở Mỹ hoặc châu Âu được hướng dẫn chi tiết - bị nhiều người, kể cả một số giáo sư tiến sỹ ở Việt Nam, xem nhẹ. Thay cho việc tiếp thu ý kiến xây dựng là các phản ứng tự ái, sửng cồ, nổi nóng, không chịu tiếp thu, trả lời lạc đề, v.v.. Đó là chưa kể đến rào cản về Anh ngữ vẫn còn lù lù đứng đó đòi hỏi nhiều nỗ lực phấn đấu để vượt qua.
Theo Tiền Phong Online ngày 24/8/2005 “trong số 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học của Việt Nam chỉ có khoảng 500 người (3.7%) có sản phẩm được quốc tế ghi nhận. Việt Nam đào tạo khối lượng lớn cử nhân nhưng không thành trí thức. Ví dụ cay đắng nhất là mỗi năm hàng ngàn trí thức trẻ bước vào bộ máy hành chính. Nhưng nền hành chính công bao nhiêu năm tiếp tục trì trệ, lạc hậu, hành dân. Đội ngũ cán bộ công chức đang bị coi là khâu yếu nhất trong tiến trình cải cách hành chính.”
[6] Cuốn sách giáo khoa môn “Luân lý mới” của học sinh năm thứ 3 cao học ở Nhật (tương đương lớp 12 của ta) do 6 tác giả biên soạn, trong đó có 3 giáo sư đại học và 3 thày giáo cao học. Ngoài bìa sách in bức tranh “Viện Hàn lâm Athens” của đại danh họa phục hưng Rafael vẽ các triết gia cổ đại ở Athens, với Platon, tay chỉ lên trời - đại diện cho ý thức hệ duy tâm, và Aristotle, tay chỉ xuống đất, đại diện cho ý thức hệ duy vật, đứng ở trung tâm. Sách dày 200 trang, dạy khá kỹ về các triết gia của nhân loại và các học thuyết của họ, từ các triết gia phương Tây với Socrates (470 – 399 tr CN), Platon (427 – 347 tr CN), Aritstotle (384 – 322 tr CN), Zenon (335 – 263 tr CN) , Epikouros (341 tr CN – 270 tr CN) đến các nhà tư tưởng phương Đông như Khổng Tử (551 – 479 tr CN), Mạnh Tử (372 – 289 tr CN), v.v. Trong phần các học thuyết của xã hội hiện đại, học sinh được học các tư tưởng thời Phục Hưng, rồi D. Erasmus (1466 – 1536), M. Luther (1483-1546), J. Calvin (1509 – 1564) , M. E. Montaigne (1533 – 1592), B. Pascal (1623 – 1662) , F. Bacon (1561 – 1626), R. Descartes (1596 – 1650), kế đến các tư tưởng dân chủ tự do với J. Locke (1632 – 1702) , J. J. Rousseau (1712 – 1778), I. Kant (1724 – 1804), G. Hegel (1770 – 1831), J. Bentham (1748 – 1832) , J. S. Mill (1806 – 1873), K. Marx (1818 – 1883), S. A. Kierkegaard (1813 – 1855), S. Freud (1856 – 1939), K. Jaspers (1883 – 1969), F. W. Nietzsche (1844 – 1900), M. Heidegger (1889 – 1976), J. P. Sartre (1905 – 1980) v.v. Mỗi một triết gia ít thì cũng được bàn luận trong 1 trang, nhiều thì vài ba trang (như Platon, Aristotle, Kant và Hegel). Tất cả 5 vị K. Marx, F. Engels, I. Bernstein và hai vợ chồng S. J. và B. Webb cộng lại được 3 trang. Sách còn dạy về lịch sử các tôn giáo của nhân loại như đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hồi v.v.
Có bao nhiêu học sinh lớp 12 của Việt Nam hiện nay biết Kant, Hegel, Kierkegaard là ai, hoặc thuyết phân tâm học của S. Freud nói gì, kể cả bằng con đường tự đọc sách?
[7] Theo tin VietNam Net ngày 28 tháng 3 năm 2004, tại hội thảo về chấn hưng giáo dục gần đây, một đại biểu tham dự hội thảo nêu ra con số 4 tỉ USD nhà nước ta chi cho giáo dục (với 22 triệu học sinh) hàng năm, tức là số chi bình quân cho mỗi học sinh là 182 USD. Để thấy con số này là nhiều hay ít chỉ cần so sánh với ngân sách nhà nước chi cho giáo dục của Nhật Bản 13 năm trước đây (1992) (với 25 triệu học sinh) là khoảng 50 tỉ USD, tức là số chi bình quân cho mỗi học sinh ở Nhật Bản là 2000 USD, gấp hơn 10 lần của Việt Nam. Ngoài ra, chi phí gia đình phải trả cho một học sinh học cấp 3 trường công ở Nhật là vào khoảng 4000 – 5000 USD mỗi năm. Lương một giáo viên độc thân 23 - 24 tuổi mới vào nghề của Nhật bản là khoảng 3 triệu yen (27 ngàn USD) mỗi năm. Một giáo viên 40 tuổi có một vợ và 2 con hưởng lương khoảng 5.5 triệu yen (50 ngàn USD) mỗi năm, tương đương lương phó giáo sư đại học (khoảng 35 tuổi) khoảng 5 triệu yen (45 ngàn USD) mỗi năm.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)